kinh doanh tri thức
Tổng quan ngành Quản trị kinh doanh Đại học FPT. Chương trình đào tạo ngành QTKD được thiết kế gồm 4 khối kiến thức: Kiến thức chung, kiến thức ngành, chuyên ngành và lựa chọn. Sinh viên có kiến thức phân tích kinh doanh bên ngoài, chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh
Vị trí này đòi hỏi sự tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực liên quan, đặc biệt là kiến thức, kỹ năng marketing để tiếp thị, giới thiệu sản phẩm nhằm thúc đẩy doanh số. CLO là gì? Vai trò, nhiệm vụ, chắc năng CLO (Chief Legal Officer) được hiểu là Giám đốc pháp chế của một công ty, doanh nghiệp.
Sản xuất kinh doanh và các mô hình sản xuất kinh doanh; Chủ đề 5: Tín dụng và cách sử dụng các dịch vụ tín dụng. 1. Lý thuyết Bài 8: Tín dụng và vai trò của tín dụng trong đời sống Kết nối tri thức - siêu ngắn; Soạn văn 10 - Kết nối tri thức - chi tiết;
Chiều 15-9, tại Trung tâm chuyển giao tri thức và hỗ trợ khởi nghiệp, Đại học Quốc gia Hà Nội đã diễn Hội nghị Kết nối Khoa học công nghệ, công bố chương trình khởi nghiệp trong doanh nghiệp.
Đọc thêm: Bật mí kinh nghiệm deal lương hiệu quả Cách nâng cao mức lương của ngành quản trị kinh doanh . Để có thể nâng cao mức lương của bản thân trong ngành quản trị kinh doanh, bạn cần liên tục trau dồi những kiến thức chuyên ngành để có thể hỗ trợ hoàn thành công việc nhanh chóng.
3 Months Of Dating What To Expect.
Có nhiều định nghĩa về tri thức, theo Becerra – Fernandez & ctg 2004, Tri thức là “sự giải mã về một mối quan hệ giữa các khái niệm có liên quan đến những lĩnh vực cụ thể, Tri thức là tài sản vô giá và là nền tảng lợi thế cạnh tranh của một tổ chức Bock & ctg 2005. Với Davenport và Prusak 1998 cho rằng tri thức là tập hợp kinh nghiệm, giá trị, thông tin theo hoàn cảnh và sự hiểu biết sâu sắc để cung cấp mô hình đánh giá, kết hợp tạo ra kinh nghiệm và thông tin mới. Họ cho rằng tri thức bắt nguồn và được áp dụng ngay trong tâm trí của con người. Trong các tổ chức, tri thức không chỉ xuất hiện trong các tài liệu mà còn trong thói quen, quá trình làm việc, thực tiễn và các chuẩn mực của tổ chức. Thêm vào đó, tri thức là việc sử dụng đầy đủ các thông tin và dữ liệu kết hợp cùng với những kỹ năng, ý tưởng, trực giác, cam kết và động lực của con người. Theo Nonaka và Takeuchi 1995 định nghĩa tri thức “là tiến trình năng động của con người để chứng minh niềm tin cá nhân về cái mình cho là chân lý. Sự tiến hóa của nhận thức luận khoa học đã hình thành cáu trúc thứ bậc từ dữ liệu => thông tin => tri thức, tăng dần theo 2 chiều hướng sự hiểu biết, và sự độc lập với ngữ cảnh Serban& ctg, 2002.Dữ liệu là tập hợp các sự kiện, sự việc khách quan, rời rạc được trình bày mà không có sự phán quyết hoặc không gắn với bối liệu trở thành thông tin khi nó được phân loại, phân tích, tổng hợp và đặt vào một bối cảnh, và trở nên có thể nhận thức được đối với người tin là dữ liệu gắn với một sự liên hệ hoặc một mục đích và biến thành tri thức khi nó được sử dụng để so sánh, đánh giá những kết cục, thiết lập những liên hệ và tiến hành một sự đối thoại. Thông tin là dữ liệu trong bối cảnh có thể sử dụng cho việc ta quyết định. Dữ liệu luôn được sắp xếp để tạo ra ý nghĩa cho người nhận, có thể là văn bản, hình ảnh, đoạn phim, hoặc cuộc hội thoại với người khác. Gurteen 1999 cho rằng tri thức là sản phẩm vô hình, bao gồm ý tưởng, quá trình, thông tin và ngày càng được chia sẻ trong nền kinh tế toàn cầu theo nhiều hình thức khác nhau và là sản phẩm vô hình của nên kinh tế sản xuất Tri thức có thể được xem như thông tin mà nó đạt tới sự sáng tỏ, sự phán quyết và những giá trị. Trong nhiều trường hợp, tri thức thể hiện sự thật, vì vậy nó cung cấp, tạo ra những cơ sở đáng tin cậy cho hành động. Tri thức là kho tàng của sựhiểu biết và các kỹ năng được tạo ra từ trí tuệ của con người đặc biệt từ những người khác. Tri thức thường bị nhầm lẫn với thông tin nhưng thực chất tri thức và thông tin là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau Grey, 2007. Thông tin tập hợp các dữ liệu cho mục đích xác định rõ ràng trong khi tri thức được xem là một quá trình, động lực, khả năng và chia sẻ sự hiểu biết. Trong thực tế, con người có thể dễ dàng chia sẻ thông tin nhưng rất khó để chia sẻ tri thức đến người khác. Tri thức là tài sản bên trong của con người, phụ thuộc vào hoàn cảnh nên hoàn toàn khác với thông tin hay dữ liệu chúng ta có. Malhotra 2000 cho rằng có sự nhầm lẫn giữa tri thức và thông tin dẫn đến các nhà quản lý đã tiêu tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc vào việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin CÁ NHÂN TRI THỨC nhưng không mang lại kết quả như mong đợi. Tri thức được xác định rất rõ là tài sản bên trong của con người và được sử dụng để phản ứng khi có vấn đề xảy ra. Nói một cách khác, tri thức là sự tổng hợp thông tin, dữ liệu và kinh nghiệm. Jain và các công sự 2007 cho rằng tri thức là nguồn lực đầu vào quan trọng trong hầu hết các tổ chức vì nó cho phép các tổ chức phát triển và tạo ra các lợi thế cạnh tranh của mình, trong khi Hsu 2006 nhấn mạnh tri thức giúp tổ chức đánh giá nhân viên, giúp nhân viên thực hiện công việc và tạo ra lợi thế cạnh tranh cuối cùng của tổ chức. Do đó, việc quản lý, khai thác sử dụng tri thức có hiệu quả giúp tổ chức có thể duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh và là yếu tố quan trọng đối với sự thành công của một tổ Martensson 2000 khẳng định tri thức là nhân tố cơ bản, giúp tổ chức tạo ra các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo với định nghĩa phổ biến nhất của tri thức là “những ý tưởng hay sự hiểu biết được một cá nhân sở hữu sử dụng để thực hiện các hành động hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức”. Theo Zack 1999, phần lớn tri thức trong các tổ chức là ẩn đi nên rất khó kết nối với nhau. Do tri thức luôn nằm trong bộ não của cá nhân, bao gồm rất nhiều kỹ năng nhận thức như niềm tin, hình ảnh, trực giác và kỹ năng, không phải tài liệu, chứng từ nên rất khó để diễn giải hoặc mô tả một cách rõ ràng. Drucker 1994 cho rằng tri thức là nguồn lực chính cho mỗi cá nhân nói riêng và cho tổ chức nói chung. Tri thức được xem là nguồn tài nguyên khó sao chép, đánh giá và lựa chọn nhưng mang đến cho người sở hữu nó loại “hàng hóa” độc đáo và duy nhất. Điều đó cho thấy tri thức khác với con người, tiền bạc, máy móc hay vật liệu vì tri thức rất khó nhân rộng và cũng rất khó để xây dựng các chiến lược thay thế. Trong nền kinh tế tri thức, không phải đất đai hay máy móc là tài sản chính, tri thức, chuyên môn và sự đổi mới thật sự là tài sản mang lại lợi nhuận cao và nâng cao lợi thế cạnh tranh của tổ chức vì thế tri thức phải được quản lý một cách hiệu quả chức. Nguyễn Thị Thảo
Thức ăn nhanh, fastfood là gì? Thức ăn nhanh hay còn gọi là fastfood, là tất cả những món ăn được chế biến và khách hàng có thể sử dụng ngay, phục vụ cho các nhu cầu ăn uống nhanh chóng, tốn ít thời gian nhất của khách hàng, người tiêu dùng. Một số mặt hàng thức ăn nhanh phổ biến có thể kể đến như Hamburger, gà rán, khoai tây chiên, pizza, nước uống có gas… In hộp đựng thức ăn nhanh tại Trí Phát Xu hướng kinh doanh fastfood hay còn được gọi là kinh doanh thức ăn nhanh nhận được sự quan tâm và đầu tư của nhiều cá nhân, doanh nghiệp muốn bước chân vào mảng kinh doanh ẩm thực. Khi đầu tư vào mảng kinh doanh thức ăn nhanh, người kinh doanh có khá nhiều về các món thức ăn nhanh để kinh doanh, phục vụ nhu cầu sử dụng của khách hàng, người tiêu dùng. Với mô hình kinh doanh thức ăn nhanh, kinh doanh fastfood này, các cơ sở kinh doanh sẽ dễ dàng thay đổi hoặc kinh doanh nhiều món ăn cùng lúc để phục vụ khách hàng, người dùng. Mỗi thời điểm sẽ có một một vài những món ăn được đặc biệt ưa chuộng. Khi các cơ sở kinh doanh fastfood nắm bắt được xu hướng và phục vụ cho khách hàng những món ăn đang phổ biến sẽ góp phần thu hút được khách hàng và mang đến hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Tại sao xu hướng kinh doanh fastfood được ưa chuộng? In hộp đựng thức ăn nhanh tại Trí Phát Xu hướng kinh doanh fastfood, kinh doanh thức ăn nhanh được ưa chuộng và trở nên phổ biến bởi nhiều lý do và sự tiện lợi mang đến cho khách hàng, người tiêu dùng. Một số những tiện ích của dịch vụ kinh doanh thức ăn nhanh mang đến cho người dùng có thể kể đến như Các mặt hàng kinh doanh thức ăn nhanh giúp cho khách hàng, người dùng tiết kiệm được thời gian. Đối với những người không có thời gian nấu nướng hay bận rộn thì các món thức ăn nhanh sẽ là sự lựa chọn tối ưu nhất. Những món thức ăn nhanh là sự lựa chọn thuận tiện cho các buổi tụ họp, tiệc tùng, picnic… Sẽ không cần phải tốn thời gian nấu nướng hay dọn dẹp. Thức ăn nhanh sau khi sử dụng có thể thu dọn một cách gọn gàng, nhanh chóng bởi chỉ có những chiếc hộp giấy đóng gói thực phẩm Các món thức ăn nhanh được chế biến với hương vị rất hấp dẫn, thơm ngon. Chính vì vậy các món thức ăn nhanh ngày càng trở nên phổ biến, được ưa chuộng và trở thành ngành kinh doanh tiềm năng, mang đến hiệu quả kinh doanh tốt và được nhiều cá nhân, doanh nghiệp lựa chọn đầu tư. In hộp đựng thức ăn nhanh bảo quản hương vị món ăn In hộp đựng thức ăn nhanh tại Trí Phát Kinh doanh thức ăn nhanh, kinh doanh fastfood là những món ăn phần lớn phải giao đến tay của khách hàng ở nhiều địa điểm khác nhau. Chính vì vậy, việc đầu tư in hộp đựng thức ăn nhanh là điều cần thiết và quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp, thương hiệu cung cấp các mặt hàng thức ăn nhanh trên thị trường từ trước đến nay. Những chiếc hộp đựng thức ăn nhanh được in ấn bằng chất liệu giấy cứng để tạo nên những mẫu túi giấy cứng cáp, chắc chắn và chất lượng để đóng gói thức ăn nhanh phục vụ khách hàng, người tiêu dùng. Những chiếc hộp đựng thức ăn nhanh sẽ giúp bảo quản hương vị cho món ăn một cách tốt nhất, giữ được độ nóng của thức ăn khi đưa đến tay khách hàng, người tiêu dùng. Để có được những mẫu hộp đựng thức ăn nhanh chất lượng, khách hàng cần tìm đến các cơ sở in ấn có uy tín, chuyên môn để sở hữu được những mẫu hộp giấy cao cấp, chất lượng để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh thức ăn nhanh của doanh nghiệp. In hộp đựng thức ăn nhanh tại Trí Phát In hộp đựng thức ăn nhanh tại Trí Phát In hộp đựng thức ăn nhanh tại Trí Phát Đăng nhập
Đóng góp tài liệu Vui lòng gửi mail cho nhóm admin đến dethineu Ghi tên hoặc nick name để được ghi công*Nút bên dưới có thể không hoạt động trên desktop* Bấm để gửi mail Tất cả tài liệu được chia sẻ với tinh thần quốc tế cộng sản trong sáng
Cạnh tranh bằng vốn tri thức minh họa Khều. TBKTSG – Trong doanh nghiệp, vốn tri thức intellectual capital thể hiện thông qua con người, cấu trúc tổ chức, tài sản tri thức intellectual assets và sở hữu trí tuệ intellectual properties. Việc hiểu và đo lường vốn tri thức sẽ giúp doanh nghiệp tìm kiếm, phát triển và duy trì lợi thế cạnh tranh. Vốn tri thức và tài sản tri thức Con người sở hữu tri thức của mình. Bản thân mỗi người là một nguồn vốn tri thức. Khi tham gia vào một doanh nghiệp, họ sẽ trở thành tài sản tri thức của doanh nghiệp. Nguồn vốn này có thực sự phát huy, trở thành một tài sản giá trị hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đôi khi nguồn vốn tri thức tốt chưa chắc đã trở thành một tài sản giá trị. Mỗi doanh nghiệp đều có vốn tri thức. Nguồn vốn này thể hiện ở bản quyền tác giả, kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm kinh doanh, cơ sở dữ liệu, lòng tin vào nhãn hiệu và sự tài tình của các nhà quản trị cấp cao. Vốn con người, một phần của vốn tri thức, cũng được xem là tài sản vô hình như những tài sản vô hình khác của doanh nghiệp như uy tín, hình ảnh và nhãn hiệu. Những tài sản vô hình này cùng với các tài sản hữu hình khác như tiền và hữu sản trong doanh nghiệp hình thành nên thị giá của tổ chức kinh doanh. Kinh nghiệm, kỹ năng và trình độ của nhân viên tạo nên vốn con người trong tổ chức. Nguồn vốn này được tiếp thu, tích lũy và chuyển giao qua thời gian, tạo nền tảng vững chắc cho tổ chức phát triển. Tài sản vô hình như tài liệu sản xuất, cấu trúc tổ chức hình thành vốn cấu trúc. Nguồn vốn này là hạ tầng hỗ trợ cho vốn con người, đồng thời động viên nhân lực tạo ra và phát triển tri thức. Những biểu hiện cụ thể của kiến thức có thể sở hữu và trao đổi kinh doanh được gọi là tài sản tri thức. Nếu tài sản tri thức được pháp luật bảo chứng sẽ trở thành sở hữu trí tuệ. Có năm loại sở hữu trí tuệ là bản quyền patents, tác quyền copyrights, thương quyền trademarks, bí mật thương mại trade secrets, và bí quyết know-how. Tuy nhiên, doanh nghiệp thường khó lượng hóa hay vốn hóa những cơ hội do vốn tri thức tạo ra bởi vì chưa có phương pháp nhận dạng và đo lường những tài sản tri thức mà doanh nghiệp đang sở hữu. Những khía cạnh khác của vốn tri thức bao gồm các yếu tố như các quan hệ kinh doanh với đối tác, sự trung thành của khách hàng, kiến thức và năng lực của nhân viên. Lợi ích của việc đầu tư vào các kỹ năng cho nhân viên cũng giống như lợi ích từ việc đầu tư vào những tích sản khác. Nhưng sự so sánh này có giới hạn bởi doanh nghiệp có thể sở hữu tích sản nhưng khó có thể sở hữu con người. Những cách ghi chép kế toán truyền thống không thể hiện được sự khác biệt giữa giá trị sổ sách và thị giá doanh nghiệp. Đó chính là giá trị tạo ra của tài sản tri thức. Có một khoảng cách lớn giữa giá trị của doanh nghiệp trên bảng cân đối tài khoản và đánh giá của nhà đầu tư về những giá trị này. Trong hầu hết các doanh nghiệp hiện nay, sự đánh giá của thị trường chủ yếu thể hiện ở nhãn hiệu brand nhưng chưa thấy được vốn tri thức trong đó. Lịch sử kinh doanh cho thấy rằng những khoản đầu tư lớn vào vốn con người là công cụ chính tạo ra giá trị nhưng thường lại không thể hiện trên bảng cân đối tài sản. Những giá trị của tài sản tri thức như bản quyền tác giả hay thương quyền lại không được đánh giá vì giá trị của những tài sản này chỉ có thể sử dụng trong tương lai nhưng lại được ghi nhận là chi phí. Nếu không được tận dụng và áp dụng triệt để, tài sản tri thức không tạo ra giá trị gia tăng. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể nào quản lý tri thức nếu không biết nhận dạng và sử dụng loại tài sản này. Sử dụng vốn tri thức Vốn con người là một trong những yếu tố chính của thị giá doanh nghiệp, đồng thời giá trị này cũng nên được thể hiện trong tài khoản doanh nghiệp để nhà đầu tư hay những ai quan tâm thấy được tổng giá trị của doanh nghiệp. Trong đó cần làm nổi bật tài sản vô hình và tài sản hữu hình. Quá trình xác định các đại lượng cũng như thu thập và phân tích thông tin liên quan đến những đại lượng này sẽ giúp doanh nghiệp nhận thấy cần phải làm gì để tìm kiếm, lưu giữ, phát triển và tận dụng hiệu quả nguồn vốn con người. Đo lường giá trị nguồn vốn con người có thể dùng làm cơ sở cho các chiến lược nhân sự liên quan đến phát triển các năng lực cốt lõi của tổ chức. Những đại lượng này có thể được dùng để kiểm soát quá trình tiến bộ trong việc thực thi và đạt các mục tiêu nguồn nhân lực và đánh giá thành quả trong công tác quản lý nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Đặc biệt là làm cơ sở cho vấn đề đào tạo, đãi ngộ và khen thưởng. Tuy nhiên, rất khó có thể đặt các con số vào các giá trị tài sản con người bởi những giá trị như vậy phải dựa trên những giả thiết mà không phải ai cũng chấp nhận. Ngoài ra, độ tin cậy của các đại lượng đó không được kiểm chứng bằng những biện pháp đảm bảo. Các chuẩn mực kế toán truyền thống chưa có các hướng dẫn về cách ghi chép giá trị của các tài sản này. Tài sản vô hình có thể ở dạng như bản quyền, uy tín, chi phí nghiên cứu và phát triển nhưng lại không đề cập đến kiến thức của nhân viên, những thành quả xuất sắc đã đạt được, những khoản đầu tư cho đào tạo. Rất khó có thể định giá trị của vốn con người nhưng sự mất mát của vốn con người cũng tốn kém không ít. Các báo cáo tài chính không cho thấy được sự mất mát vốn con người, nhưng những tác động của sự kiện này có thể thấy được. Nghiên cứu của KPMG 1999 cho thấy rằng sau khi mất đi những nhân viên chủ chốt, 43% các tổ chức gặp phải những thiệt hại liên quan đến quan hệ của khách hàng, 50% cho rằng mất đi những thông tin quan trọng, và 10% cho rằng thu nhập của doanh nghiệp giảm đáng kể. Để tính giá trị của vốn tri thức, các nghiên cứu cho rằng đối với những công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, giá trị của vốn tri thức là sự khác biệt giữa thị giá và giá trị sổ sách của doanh nghiệp. Mặt khác, chi phí để quản lý những tri thức này cũng không nhỏ và cũng khó đo lường. Vì không thể định nghĩa rõ chi phí của quản lý tri thức, các doanh nghiệp khó có thể tính toán hiệu ứng trên các bảng báo cáo tài chính. Sự khác biệt giữa vốn tri thức và vốn tài chính thể hiện ở một điểm vốn tài chính phản ánh sự tiến bộ và thành tựu trong quá khứ, vốn tri thức phản ánh chính xác hơn sự tăng trưởng và thành quả trong tương lai. Vấn đề của doanh nghiệp là làm thế nào để tạo ra, duy trì và phát triển nguồn vốn tri thức. Giá trị của nguồn vốn có thể tăng lên do đầu tư và ứng dụng, nhưng để những giá trị này thực sự có giá trị thì cần có môi trường vận dụng. Đối với doanh nghiệp, công việc sẽ phức tạp hơn, vừa phải huy động, phát triển và sử dụng nguồn lực để tạo ra phần lưu của nguồn vốn. Giá trị có thực sự tạo ra hay không còn phụ thuộc vào sự phát triển bền vững của nguồn vốn. Hơn thế nữa, nguồn vốn này cũng dễ dàng mất vào tay đối thủ, vì vậy cần quản lý nguồn vốn này một cách cẩn trọng. Với bản thân nhân viên, họ có thể tự đào tạo hoặc nhận sự đào tạo của tổ chức để cải tiến phần trữ vốn của mình, nhưng cũng cần có môi trường để tạo ra giá trị thực. Đối với từng nhân viên, họ có quyền kỳ vọng sẽ thu lợi từ việc đầu tư thời gian và nỗ lực trong tổ chức dưới hình thức phát triển kỹ năng và khả năng; họ sẽ có cơ hội để tăng khả năng có được việc làm ngay cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp. Việc này đồng nghĩa với giá trị nguồn vốn có thể thay đổi khi được sử dụng ở các môi trường khác nhau. ———- * Giám đốc chương trình Maastricht MBA, Đại học Bách khoa TPHCM
kinh doanh tri thức