hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử
Skkn hướng dẫn học viên sử dụng sách giáo khoa trong dạy học môn lịch sử lớp 10; Skkn hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn lịch sử; Skkn hướng dẫn học sinh ôn tập theo chủ đề môn lịch sử; Skkn hướng dẫn học sinh khai thác tranh
Đáp án trắc nghiệm mô đun 4 môn Lịch sử Trung học phổ thông. Đáp án module 4 môn Lịch sử THCS (30 câu) gồm những câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trắc nghiệm đúng sai khi học tập module 4. Mời các thầy cô tham khảo để hoàn thành việc tập huấn mô đun 4 tốt nhất.
Bước 5:Hướng dẫn học sinh tự học: (Gv thể hiện trên bảng phụ) *Đối với bài học ở tiết học này: -Học bài cũ,chú ý về sự phát triển kinh tế làm bài tập trong vở bài tập lịch sử. -Sưu tầm tài liệu,tranh ảnh về những nghề thủ công truyền thống ở Tây Ninh hiện nay.
Tranh cãi về môn Lịch sử: Cần thu hút học sinh thay vì ép buộc. Phạm Mai. 24/04/2022. Nhiều ý kiến cho rằng việc ép học sinh học sử suốt 12 năm không mang
3.6/5 - (5 bình chọn) Để học thuộc và nhớ lâu các sự kiện Lịch sử Môn Sử vốn "nổitiếng" khó nhớ vì quá nhiều mốc lịch sử. Con số lằng nhằng với hàng loạt các sựkiện bất kỳ bạn học sinh nào cũng sợ. Nhưng không phải không có cách nhớ các mốc sự
3 Months Of Dating What To Expect.
Trong thời gian nước rút ôn tập cuối học kỳ I, học sinh lớp 6 cần có định hướng rõ ràng để quá trình ôn tập đạt hiệu quả. Với môn Lịch sử – Địa lý, các con cần nắm chắc được nội dung chính của các kiến thức đã học, từ đó áp dụng vào làm các dạng câu hỏi, bài tập. Cấu trúc đề thi học kỳ I môn Lịch sử – Địa lý Về hình thức, đa phần đề thi cuối kỳ môn Lịch sử – Địa lý 6 thường kết hợp cả tự luận và trắc nghiệm nhằm kiểm tra được đầy đủ về cả độ rộng và độ sâu kiến thức của học sinh, hoặc có thể học sinh sẽ thi bài kiểm tra tổng hợp theo hình thức trắc nghiệm 100%. Về nội dung, đề thi gồm hai phần chia đều theo 2 phân môn Lịch sử và Địa lý – Lịch sử có ba nội dung chính Xã hội nguyên thuỷ, xã hội cổ đại và Đông Nam Á từ những thế kỷ tiếp giáp công nguyên đến thế kỷ 10 – Địa lý Bản đồ, Trái Đất – hành tinh của hệ mặt trời và cấu tạo của Trái Đất, vỏ Trái Đất Cùng tham khảo đề cương ôn tập I môn Lịch sử – Địa lý 6 năm 2021 – 2022 của trường THCS Mai Dịch, Cầu Giấy dưới đây nhé! Phương pháp và kỹ năng làm các nội dung câu hỏi trong đề thi cuối kỳ Để làm tốt bài thi, học sinh cần nắm chắc được nội dung các kiến thức đã học để vận dụng vào làm bài. Đề thi sẽ kiểm tra kiến thức và kỹ năng dựa trên 4 mức độ là Nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao. Vì vậy, trong quá trình ôn tập, các con cần nắm được nội dung chính của từng vấn đề để có thể áp dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề theo từng mức độ mà đề bài yêu cầu Hướng dẫn ôn tập phần Lịch sử Với nội dung kiến thức của Lịch sử trong học kỳ I lớp 6, học sinh làm quen với khái niệm lịch sử và môn Lịch sử cùng với các nội dung về xã hội nguyên thuỷ, xã hội cổ đại. Để xác định được các mốc thời gian, các con cần nắm chắc phần khái niệm “thập kỷ , “thế kỷ”, “thiên niên kỷ”, “thời gian trước công nguyên”, “sau công nguyên” và vận dụng vào việc tính thời gian xảy ra của các sự kiện. Các con cũng cần hiểu được nguồn gốc và quá trình phát triển của loài người qua các giai đoạn cùng những dấu tích của người tối cổ, đặc điểm đời sống, chuyển biến kinh tế – xã hội của xã hội nguyên thuỷ, xã hội cổ đại. Bên cạnh đó là những điểm chính của các nhà nước cổ đại Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, Ấn Độ cổ đại, Trung Quốc cổ đại, Hi Lạp và La Mã cổ đại. Một số kiến thức trọng tâm cần ghi nhớ Sự phát triển của con người Con người phát triển từ vượn người → người tối cổ → người tinh khôn Nguyên nhân tan rã của xã hội nguyên thuỷ Kim loại ra đời → diện tích mở rộng → năng suất lao động tăng → sản phẩm dồi dào → dư thừa → chiếm đoạt → phân hoá giàu – nghèo → hình thành giai cấp thống trị và bị trị → xã hội nguyên thuỷ tan rã. Sự hình thành của các quốc gia cổ đại và các thành tựu văn hoá tiêu biểu của các quốc gia này. >>> Tham khảo thêm kiến thức qua bài giảng học thử để ôn thi cuối kỳ tại đây>> Tham khảo thêm kiến thức qua bài giảng học thử để ôn thi cuối kỳ tại đây NHẬN BÀI GIẢNG HỌC THỬ LỊCH SỬ – ĐỊA LÝ 6 ĐỂ ÔN LUYỆN CHO BÀI KIỂM TRA CUỐI KỲ I TẠI ĐÂY<<< Bám sát chương trình GDPT mới và 3 bộ SGK Cánh diều, Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo. Hệ thống video bài giảng ghi hình trước sử dụng hình ảnh đồ họa trực quan, sinh động, kích thích sự sáng tạo và niềm say mê học tập của học sinh. Giáo viên 2 miền Bắc – Nam giỏi, giàu kinh nghiệm sẽ trang bị toàn diện kiến thức căn bản, giúp học sinh đạt được chuẩn đầu ra theo chương trình mới. Hệ thống bài tập tự luyện, đánh giá kiểm tra định kỳ, dịch vụ hỏi đáp hỗ trợ 24/7. Mọi thông tin chi tiết vui lòng liên hệ hotline 0936585812 để được tư vấn MIỄN PHÍ.
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng Tự học cho học sinh môn Lịch sử 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênMục lục Trang đầu. 2 Lí do chọn đề tài. 2 đích nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu. 3 Phương pháp nghiên cứu. 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 3 Cơ sở lí luận. 3 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệmđối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 17 3. Kết luận, kiến nghị. 18 1. MỞ ĐẦU do chọn đề tài Hiện nay, các tiết học Lịch sử nói chung và Lịch sử Việt Nam nói riêng được tiến hành một cách sinh động nhờ có sự quan tâm đầu tư cho soạn giảng, đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động cho học sinh trên lớp, đặc biệt là những bài giảng điện tử có nhiều kênh hình phong phú. Tuy nhiên, các tiết học này đa số là từ sự chuẩn bị từ các thầy cô mà chưa có sự chuẩn bị của học sinh. Vì vậy đa số học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, điều này không những không phát triển được tư duy của học sinh, mà ngược lại còn đẩy học sinh vào thế ỷ lại, mau quên dẫn đến thờ ơ với lịch sử, kể cả lịch sử dân tộc. Đặc biệt trong thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một thực trạng mà cả xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử trong ngành giáo dục Thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết quả trong các kì tuyển sinh quá thấp, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học sinh không có điểm điểm 0, những bài thi “cười ra nước mắt”... Thực trạng đó, khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình trạng đó và nâng cao nhận thức, kết quả học tập cho học sinh trong học tập lịch sử. Một thực tế đã mở ra một cơ hội thành công rất lớn cho cả người dạy và người học lịch sử. Đó là phải để cho người học chủ động tiếp thu kiến thức thông qua các nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó dẫn đến yêu cầu phát triển kĩ năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức của người học là rất lớn. Vì vậy người dạy phải có phương pháp để phát triển kĩ năng tự học trong học tập lịch sử cho HS. Qua kinh nghiệm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu thực tế, tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài “ Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng Tự học cho học sinh môn lịch sử 7”, nhằm tạo cảm hứng học tập cho học sinh, có biện pháp giúp đỡ các em phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và vị trí của môn lịch sử trong xã hội. đích nghiên cứu Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng + Quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. + Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp + Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. + Báo báo những kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,.. + Có trách nghiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Với các kĩ năng trên nhằm tránh lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện khả năng và thói quen tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong học tập cho HS. Qua đây HS chủ động tìm tòi, khám phá, phát hiện, rèn luyện và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực, phẩm chất. Học để đáp ứng những yêu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai.[3] tượng nghiên cứu Học sinh khối 7 trường THCS Quảng Long. pháp nghiên cứu Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện tượng chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tài này tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như Tìm hiểu, điều tra thực tế, thống kê, phân tích, đánh giáNhững phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài này.[4] 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Cơ sở lí luận Khái niệm a. Khái niệm kỹ năng Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn Từ điển tiếng Việt. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân . Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng. Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết kiến thức hoặc kinh nghiệm nhằm tạo ra kết quả mong đợi.[3] b.. Khái niệm tự học Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng Tự học là học riêng một mình ? ... Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình học tập hoặc hợp tác với bạn nhóm học, không có sự giảng dạy một cách trực tiếp của giáo viên...tự bản thân tìm tòi, lao động bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một sự vật hiện tượng... Vậy, Tự học là quá trình tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh tri thức.[3] c. Khái niệm kỹ năng tự học Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng kỹ năng tự học là khả năng làm chủ các hoạt động học tập của bản thân người học một cách đúng đắn khoa học để đạt hiệu quả mong đợi, như kỹ năng lập được kế hoạch tự học- thời gian địa điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, nghe giảng, ghi chép bài... người học xác định được mục tiêu, mục đích, phương pháp học tập một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Thuận lợi Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, người giáo viên cũng như học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình, báo chí, Internet, các tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện bổ trợ cho công tác dạy và học. Trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là phía nhà trường đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người giáo viên hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho học sinh. Đa số học sinh, phụ huynh cũng thấy được tầm quan trọng của việc học tập để phục vụ cho tương lai, cho nên 1 số học sinh cũng có ý thức cao trong việc học tập và phụ huynh cũng lo lắng quan tâm đến việc học của con cái nhiều hơn. b. Khó khăn Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng dạy tôi cũng nhận thấy được nhiều khó khăn,bất cập, đó là nguyên nhân dẫn đến chất lượng của bộ môn lịch sử ngày càng sa sút. Tuy nhiên, trong đề tài này tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó. Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch sử, coi môn lịch sử là “môn phụ”- cho nên học sinh chưa thật sự ý thức trong việc học tập môn học này. Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn Lịch sử còn nhiều vấn đề tồn tại chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa được áp dụng từ năm học 2006-2007 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... dẫn đến phương pháp giảng dạy của giáo viên còn ít chú ý đến rèn luyện phát triển khả năng tư duy độc lập của học sinh. Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn lịch chưa thật sự tâm huyết với nghề. Thứ tư, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “chán” - không hứng thú với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học sinh, học lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng”, “máy móc”... và còn nhiều nguyên nhân khác nữa. Chính những vấn đề đó mà có những bài thi của học sinh “cười ra nước mắt”, những bài thi điểm 0... còn nhiều, đặc biệt trong kì thi THPT Quốc gia năm 2015 có cụm thi chỉ có một hoặc hai thí sinh dự thi môn Lịch sử. Chứng tỏ học sinh phần lớn chưa thực sự đam mê tìm hiểu môn Lịch sử. Ở trường THCS Quảng Long cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Năm học 2016-2017 tôi thử nghiệm không áp dụng đề tài này trong giảng dạy thì tôi thấy học sinh chưa hứng thú trong học tập, khó nhớ nội dung các kiến thức, hoặc có những học sinh do chăm chỉ mà nhớ thì các em cũng không nhớ lâu. Kết quả thực nghiệm như sau Lớp Sĩ số Giái Kh¸ TB YÕu Km SL % Sl % SL % SL % SL % 7A 35 6 17,1 10 28,6 15 43,2 4 11,4 0 0 7B 36 1 2,8 9 25 20 55,6 6 16,6 0 0 c. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà trường phổ thông. Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là trung tâm, là người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ đóng vai trò là người điều khiển hướng dẫn học sinh học tập. Cùng với những bất cập mà tôi đã trình bày ở phần thực trạng về chương trình trình học lịch sử hiện nay “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... Chính vì thế mà người giáo viên dạy học môn lịch sử không thể truyền đạt cho học sinh một lượng kiến thức “khổng lồ” được... mà chỉ có một trong hai cách -Một là, giáo viên đọc cho học sinh ghi chép toàn bộ kiến thức cho học sinh- theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục ban hành. -Hai là, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn học sinh tự học-tự tìm hiểu là chính; chỉ giảng giải phân tích một số nội dung trọng tâm cần thiết. Tuy nhiên cách thứ nhất là đi ngược lại với xu thế phát triển của khoa học giáo dục hiện đại và hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Giáo dục, vậy nên người giáo viên phải luôn xác định học sinh là trung tâm còn mình là người hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức. Nhà giáo dục học Usinxki nói rằng “nhiệm vụ chủ yếu của thầy giáo không phải là truyền đạt kiến thức mà dạy cho học sinh biết suy nghĩ ”.[4] Như vậy, vấn đề tự học của học sinh là rất quan trọng vì đó là một khâu trong một quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Điều này xuất phát từ nguyên lý giáo dục gắn nhà trường với đời sống. Với việc xác định học sinh là trung tâm, giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, đó là người giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn bộ chương trình và phải lập được kế hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao quát và cụ thể- đặc biệt là giáo án trong từng tiết dạy... d. Một số lưu ý khi học sinh tự học Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai thành bại kết quả học tập của người học. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học sinh còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả bằng cách học truyền thống . Cho nên, trong quá trình tự học, học sinh cần lưu ý một số vấn đề. - Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu trình 3 giai đoạn Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh. Chu trình này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết và giải quyết vấn đề học tập. - Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung học tập. Mục tiêu là cái đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội dung cần học và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được mục tiêu-mục đích thì học mới hiệu quả. - Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa học rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch. - Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương pháp đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập. giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Trong đề tài này tôi xin đưa ra một số biện pháp để rèn kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử cho học sinh. a. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình. Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa, hoặc nội dung bài học mà giáo viên truyền thụ ở lớp... Cách học như vậy mang tính “máy móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và khó nhớ. Để nhớ được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên, vở ghi... Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần, mục chính rồi sau tìm xem mỗi phần, mục ... gồm mấy ý chính rồi diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình để học. Học sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần thiết nhớ “văn” có nghĩa học sinh không nhất thiết phải diễn đạt nói và viết giống hệt như sách giáo khoa hoặc như lời giảng của thầy cô, miễn sao đúng là được. [5] Ví dụ 1 Bài 11 Lớp 7 Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống 1075-1077. Đây là bài học có nhiều mốc thời gian và sự kiện. Vì vậy sẽ rất khó khăn cho học sinh để nhớ và học bài học. Cho nên giáo viên chia học sinh thành các cặp đôi và yêu cầu các cặp lập bảng thống kê, chia thành 2 cột cột thời gian- cột sự kiện. Sau khi hiệu lệnh thời gian kết thúc cặp nào xong trước sẽ được trình bày GV chấm điểm và ưu tiên được công 1 điểm thưởng xong trước; còn lại các cặp khác đối chiếu với kết quả của bạn để chấm điểm cho cặp của mình. Ví dụ 2 Đối với các bài học về tình hình kinh tế các triều đại Bài 9 Nước Đại Cồ Việt thời Đinh Tiền Lê Tiết 2; bài 12 Đời sống kinh tế, văn hóa ; bài bài 13 Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII Tiết 2 - Những bài này đều có đặc điểm chung là nêu tình hình kinh tế Nông nghiêp, thủ công nghiêp, thương nghiệp. - Để học tốt những bài học này học sinh chỉ cần nắm được các qui luật sau + Kinh tế nông nghiệp Biện pháp của nhà nước Thủy lợi, khai hoang.....; kết quả đạt được. + Thủ công nghiệp Thủ công nhà nước, thủ công truyền thống trong nhân dân. + Thương nghiệp Nội thương buôn bán trong nước, Ngoại thương buôn bán với nước ngoài. Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, học sinh tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình. Khi mới học theo phương pháp này học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn như trình bày dài dòng, vấp váp và có khi thiếu chính xác, có thể diễn đạt sai kiến thức... Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều, thuần thục trở thành kỹ năng thì rất dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Khi học tập bằng phương pháp này học sinh cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần hai học sinh truy bài cho nhau để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh. b. Sơ đồ Trong phương pháp học Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình, học sinh tìm ý cơ bản sau đó có thể sơ đồ hóa, công thức hóa ... đơn vị kiến thức cho ngắn gọn, đơn giản... tránh gây nhiễu giữa những đơn vị nội dung kiến thức gần giống nhau. Khi sử dụng học bài bằng phương pháp này người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh lập sơ đồ... Những nội dung phức tạp hoặc các giai đoạn lịch sử thì giáo viên có thể cung cấp sẵn cho học sinh rồi hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và phát biểu... Ví dụ Bài 12 Đời sống kinh tế văn hóa Tiết 2; Bài 15 Sự phát triển kinh tế và văn hóa nhà Trần Tiết 1; Nước Đại Việt thời Lê sơTiết 2 Khi dạy về các giai cấp, tầng lớp trong xã hội giáo viên có thể yêu cầu học sinh lập sơ đồ, sau đó phát triển các ý. Quý tộc NDCX Nô lệ Vua Quan sát sơ đồ học sinh kết hợp sách giáo khoa và lời giảng của giáo viên... học sinh có thể biết được xã hội phong kiến nước ta chia thành các giai cấp, tầng lớp nào Nông dân là tầng lớp đông đảo nhất và có vai trò to lớn; nhận đất canh tác và nộp tô thuế. Quý tộc vua, quan, địa chủ là tầng lớp bóc lột có nhiều của cải và quyền thế. Nô lệ Số lượng không nhiều, chủ yếu phục vụ, hầu hạ tầng lớp quý tộc. Bên cạnh việc lập sơ đồ, công thức chúng ta còn có thể lập dàn ý theo dạng cành cây, lập niên biểu, biểu đồ ....Có thể nói rằng, áp dụng phương pháp dạy học này giúp học sinh có thể độc lập tư duy và từng bước rèn luyện kỹ năng tự học ngày càng hiệu quả hơn. c. So sánh So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử có những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản... Học sinh có thể so sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật lịch sử, so sánh về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau... so sánh theo cặp phạm trù hoặc lập bảng... và điều đó giúp học sinh tránh tình trạng nhầm lẫn kiến thức trong quá trình học tập. Với cách học này, chúng ta đưa các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai nội dung đơn vị kiến thức đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào cần nhớ rõ, từ đó học sinh có thể học một mà biết được hai và đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ 1 Bài 5 Ấn Độ thời phong kiến, mục 2. Giáo viên chia học sinh theo nhóm Yêu cầu các nhóm lập bảng so sánh 3 vương triều khác nhau ở Ấn Độ thời kì phong kiến. Nội dung so sánh Vương triều Gup-ta Vương triều Đê-li Vương triều Mô-gôn Thời gian hình thành, kết thúc. Quốc gia lập nên Chính sách kinh tế Chính sách văn hóa Ví dụ 2 Bài 10 Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước; bài Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII. Sau khi học xong quân đội nhà Trần giáo viên cho học sinh so sánh quân đội thời Lí với quân đội thời Trần. Triều đại Giống nhau Khác nhau Quân đội Triều Lí Quân đội triều Trần Học lịch sử có rất nhiều sự kiện khó nhớ, nhưng chúng ta nếu biết vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì một số sự kiện ghi nhớ rất đơn giản. Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến thức nội dung có mà chúng ta có thể áp dụng đưa vào so sánh để học một cách hiệu quả cao. d. Kênh hình Tranh ảnh, lược đồ, bản đồ...... Kênh hình bao gồm bản đồ, lược đồ, tranh ảnh lịch sử, là những phương tiện dạy học rất đặc trưng của bộ môn Lịch sử, nó giúp cho học sinh tái hiện những sự kiện, nhân vật trong quá khứ. Theo xu hướng hiện nay là giảm bớt thuyết trình của giáo viên, tạo điều kiện để học sinh học tập tích cực nên chúng được sử dụng như là một nguồn cung cấp kiến thức giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và rèn luyện kĩ năng bộ môn chứ không chỉ để minh hoạ cho lời giảng của giáo viên. Như vậy kênh hình là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác tốt kênh hình trong học tập bộ môn Lịch sử là một yêu cầu cấp thiết và mang tính quyết định đến sự thành công trong dạy - học của thầy và trò. [2] Qua khai thác kênh hình, GV cần chú ý rèn luyện cho học sinh những kĩ năng - Kĩ năng quan sát, nhận xét - Kĩ năng mô tả, tường thuật - Kĩ năng phân tích, nhận định đánh giá Để rèn luyện được các kĩ năng đó, trong việc tổ chức khai thác kênh hình, giáo viên tiến hành các bước sau Bước 1 Hướng dẫn học sinh tham gia một “chuyến du lịch” bằng cách giới thiệu sơ lược và hấp dẫn những hình ảnh trong sách giáo khoa Bước 2 Nêu mục đích làm việc với tranh ảnh Bước 3 Đưa ra những câu hỏi gợi ý để học sinh có cơ sở khai thác kiến thức từ tranh ảnh. Bước 4 Tổ chức cho học sinh trả lời câu, hỏi trên cơ sở các em tự phát hiện kiến thức mới. Bước 5 Cho HS nhận xét, bổ sung và GV đi đến kết luận. Hình ảnh này có chủ đề là gì? Tranh ảnh Em có liên hệ so sánh gì với quá khứ? Dự đoán gì trong tương lai? Em thu nhận được những thông tin gì qua hình ảnh đó? Em có cảm nhận và bày tỏ gì? Cụ thể Ví dụ Bài 15 Sự phát triển kinh tế văn hóa thời Trần - Học sinh quan sát hình 35 SGK [1], để khai thác hình này học sinh cần phải - Xác định chủ đề của hình 35,36 Sản phẩm thủ công trong nền kinh tế thủ công nghiệp thời Trần. - Cảm nhận từ hình 35 Đây là những sản phẩm thủ công hết sức tinh xảo, độc đáo, hoa văn sắc nét, tinh tế. - Bày tỏ thái độ Cảm phục tài năng những người thợ thủ công trong thời kì phong kiến nhà Trần con người lúc đó chưa có sự hỗ trợ của máy móc nhưng với bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo họ đã làm được những sản phẩm th
môn lịch sử modul 3, Đáp án, hướng dẫn học tập môn lịch sử modul 3 thpt, Bài tập tự luận môn lịch sử modul 3 thpt, đáp án mô đun 3 lịch sử, Đáp án, hướng dẫn học tập môn lịch sử modul 3 thpt Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 1 Thầy/cô hãy trình bày quan niệm về thuật ngữ “kiểm tra và đánh giá”. c Kiểm tra – Kiểm tra là một cách tổ chức đánh giá hoặc định giá, do đó nó có ý nghĩa và mục tiêu như đánh giá hoặc định giá. Việc kiểm tra chú ý nhiều đến việc xây dựng công cụ đánh giá, ví dụ như câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra. Các công cụ này được xây dựng trên một căn cứ xác định, chẳng hạn như đường phát triển năng lực hoặc các rubric trình bày các tiêu chí đánh giá. b Đánh giá Đánh giá trong giáo dục là một quá trình thu thập, tổng hợp, và diễn giải thông tin về đối tượng cần đánh giá ví dụ như kiến thức, kĩ năng, năng lực của HS; kế hoạch dạy học; chính sách giáo dục, qua đó hiểu biết và đưa ra được các quyết định cần thiết về đối tượng. Đánh giá trong lớp học là quá trình thu thập, tổng hợp, diễn giải thông tin liên quan đến hoạt động học tập và trải nghiệm của HS nhằm xác định những gì HS biết, hiểu và làm được. Từ đó đưa ra quyết định phù hợp tiếp theo trong quá trình giáo dục HS. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập thông tin về kết quả học tập của HS và được diễn giải bằng điểm số/chữ hoặc nhận xét của GV, từ đó biết được mức độ đạt được của HS trong biểu điểm đang được sử dụng hoặc trong tiêu chí đánh giá trong nhận xét của GV. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 2 Thầy cô hãy nêu nhận xét về sơ đồ sau đây Sơ đồ 1 Trong suốt thế kỉ XX, đánh giá được xem là nguồn cung cấp các chỉ số về việc học tập. Nó tuân theo trình tự GV thực hiện giảng dạy, kiểm tra kiến thức của HS, tiến hành đánh giá về HS, dựa trên các kết quả kiểm tra đó làm cơ sở cho các hoạt động dạy học tiếp theo. Sơ đồ 2 Thời gian gần đây trước những yêu cầu của xã hội, trong bối cảnh sự phát triển của khoa học đã cung cấp những vấn đề bản chất của hoạt động học thì đánh giá không chỉ dừng ở việc thu thập và phân tích dữ liệu về kết quả học tập mà còn thực hiện các chức năng nhiệm vụ cao hơn với mục đích cuối cùng là sự tiến bộ không ngừng của đối tượng được đánh giá. Quan điểm hiện đại về KTĐG theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS chú trọng đến đánh giá quá trình để phát hiện kịp thời sự tiến bộ của HS và vì sự tiến bộ của HS, từ đó điều chỉnh và tự điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học. Quan điểm này thể hiện rõ coi mỗi hoạt động đánh giá như là quá trình học tập Assessment as learning và đánh giá là vì học tập của HS Assessment for learning. Ngoài ra, đánh giá kết quả học tập Assessment of learning cũng được thực hiện tại một thời điểm cuối quá trình giáo dục để xác nhận những gì HS đạt được so với chuẩn đầu ra. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 3 Theo thầy/cô, năng lực của học sinh được thể hiện như thế nào, biểu hiện ra sao? Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã được học vào giải quyết vấn đề trong học tập hoặc trong thực tiễn cuộc sống của HS, kết quả đánh giá HS phụ thuộc vào độ khó của nhiệm vụ và bài tập đã hoàn thành theo các mức độ khác nhau. Thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, GV có thể đồng thời đánh giá được cả kĩ năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của HS. Đánh giá năng lực được dựa trên kết quả thực hiện chương trình của tất cả các môn học, các hoạt động giáo dục, là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 4. Nguyên tắc kiểm tra đánh giá có ý nghĩa như thế nào trong kiểm tra đánh giá năng lực học sinh? Đảm bảo tính toàn diện và linh hoạt Việc đánh giá năng lực hiệu quả nhất khi phản ánh được sự hiểu biết đa chiều, tích hợp, về bản chất của các hành vi được bộc lộ theo thời gian. Năng lực là một tổ hợp, đòi hỏi không chỉ sự hiểu biết mà là những gì có thể làm với những gì họ biết; nó bao gồm không chỉ có kiến thức, khả năng mà còn là giá trị, thái độ và thói quen hành vi ảnh hưởng đến mọi hoạt động. Do vậy, đánh giá cần phản ánh những hiểu biết bằng cách sử dụng đa dạng các phương pháp nhằm mục đích mô tả một bức tranh hoàn chỉnh hơn và chính xác năng lực của người được đánh giá. Đảm bảo tính phát triển HS Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình KTĐG, có thể phát hiện sự tiến bộ của HS, chỉ ra những điều kiện để cá nhân đạt kết quả tốt hơn về phẩm chất và năng lực; phát huy khả năng tự cải thiện của HS trong hoạt động dạy học và giáo dục. Đảm bảo đánh giá trong bối cảnh thực tiễn Để chứng minh HS có phẩm chất và năng lực ở mức độ nào đó, phải tạo cơ hội để họ được giải quyết vấn đề trong tình huống, bối cảnh mang tính thực tiễn. Vì vậy, KTĐG theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS chú trọng việc xây dựng những tình huống, bối cảnh thực tiễn để HS được trải nghiệm và thể hiện mình. Đảm bảo phù hợp với đặc thù môn học Mỗi môn học có những yêu cầu riêng về năng lực đặc thù cần hình thành cho HS, vì vậy, việc KTĐG cũng phải đảm bảo tính đặc thù của môn học nhằm định hướng cho GV lựa chọn và sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá phù hợp với mục tiêu và yêu cầu cần đạt của môn học. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 5 Tại sao có thể nói quy trình 7 bước kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh tạo nên vòng tròn khép kín Có thể nói quy trình 7 bước kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh tạo nên một vòng tròn khép kín vì kết quả kiểm tra đánh giá lại quay trở lại phục vụ cho việc nâng cao phẩm chất, năng lực cho học sinh trong quá trình học tập. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 6. Theo thầy/cô, đánh giá thường xuyên có nghĩa là gì? Đánh giá thường xuyên là hoạt động đánh giá được thực hiện linh hoạt trong quá trình dạy học và giáo dục, không bị giới hạn bởi số lần đánh giá; mục đích chính là khuyến khích học sinh nỗ lực học tập, vì sự tiến bộ của học sinh. Có thể là kiểm tra viết, quan sát, thực hành, đánh giá qua hồ sơ, sản phẩm học tập…; có thể thông qua các công cụ khác nhau như phiếu quan sát, các thang đo, bảng kiểm, bảng kiểm tra, hồ sơ học tập…phù hợp với từng tình huống. Ý nghĩa Nhằm đưa ra những khuyến nghị để HS tích cực học tập hơn trong thời gian tiếp theo Vì vậy, khi áp dụng các nguyên tắc kiếm tra đánh giá có ý nghĩa vô cùng quan trong trong kiểm tra đánh giá năng lực học sinh; đảm bảo cho sự phát triển toàn diện, đồng đều cho học sinh. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 7 Theo thầy/cô, đánh giá định kì có nghĩa là gì? Khái niệm đánh giá định kì Đánh giá định kì là đánh giá kết quả giáo dục của HS sau một giai đoạn học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của HS so với yêu cầu cần đạt so với qui định trong chương trình giáo dục phổ thông và sự hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất HS. *Ý nghĩa đánh giá định kì Đánh giá định kì là thu thập thông tin từ HS để đánh giá thành quả học tập và giáo dục sau một giai đoạn học tập nhất định. Dựa vào kết quả này để xác định thành tích của HS, xếp loại HS và đưa ra kết luận giáo dục cuối cùng. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu cô hãy cho biết câu hỏi tự luận có những dạng nào? Đặc điểm của mỗi dạng đó? Các hình thức bài tự luận được phân theo 2 hướng a Dựa vào độ dài và giới hạn của câu trả lời – Dạng trả lời hạn chế Về nội dung phạm vi đề tài cần giải quyết hạn chế. Về hình thức độ dài hay số lượng dòng, từ của câu trả lời được hạn chế. Dạng này có ích cho việc đo lường kết quả học tập, đòi hỏi sự lí giải và ứng dụng dữ kiện vào một lĩnh vực chuyên biệt. – Dạng trả lời mở rộng cho phép HS chọn lựa những dữ kiện thích hợp để tổ chức câu trả lời phù hợp với phán đoán tốt nhất của họ. Dạng này làm cho HS thể hiện khả năng chọn lựa, tổ chức, phối hợp, tuy nhiên làm nảy sinh khó khăn trong quá trình chấm điểm. Có nhiều ý kiến cho rằng chỉ sử dụng dạng này trong lúc giảng dạy để đánh giá sự phát triển năng lực của HS mà thôi b Dựa vào các mức độ nhận thức Có 4 loại – Bài tự luận đo lường khả năng ứng dụng; – Bài tự luận đo lường khả năng phân tích; – Bài tự luận đo lường khả năng tổng hợp; – Bài tự luận đo lường khả năng đánh giá. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 9. Thầy, cô thường sử dụng phương pháp đánh giá bằng quan sát trong dạy học như thế nào? Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên sử dụng phương pháp đánh giá bằng quan sát. Thông qua đó thấy được thái độ học tập, năng lực xử lí tình huống, phẩm chất của học sinh trong quá trình học tập. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 10. Thầy, cô thường sử dụng Phương pháp hỏi – đáp trong dạy học như thế nào? Phương pháp này nhằm giúp HS hình thành tri thức mới hoặc giúp HS cần nắm vững, hoặc nhằm tổng kết, củng cố, kiểm tra mở rộng, đào sâu những tri thức mà HS đã học. Do vậy tôi thường xuyên sử dụng Phương pháp đặt câu hỏi vấn đáp cung cấp rất nhiều thông tin chính thức và không chính thức về HS. Phương pháp này còn được sử dụng phổ biến ở mọi lớp học và sau mỗi chủ đề dạy học. Đây là phương pháp dạy học thường được sử dụng nhiều nhất – Tuỳ theo vị trí của phương pháp vấn đáp trong quá trình dạy học, cũng như tuỳ theo mục đích, nội dung của bài, phân biệt những dạng vấn đáp cơ bản sau Hỏi – đáp gợi mở là hình thức GV khéo léo đặt những câu hỏi gợi mở dẫn dắt HS rút ra những nhận xét, những kết luận cần thiết từ những sự kiện đã quan sát được hoặc những tài liệu đã học được, được sử dụng khi cung cấp tri thức mới. Hình thức này có tác dụng khêu gợi tính tích cực của HS rất mạnh, nhưng cũng đòi hỏi GV phải khéo léo, tránh đi đường vòng, lan man, xa vấn đề. Hỏi – đáp củng cố Được sử dụng sau khi giảng tri thức mới, giúp HS củng cố được những tri thức cơ bản nhất và hệ thống hoá chúng mở rộng và đào sâu những tri thức đã thu lượm được, khắc phục tính thiếu chính xác của việc nắm tri thức. Hỏi – đáp tổng kết được sử dụng khi cần dẫn dắt HS khái quát hoá, hệ thống hoá những tri thức đã học sau một vấn đề, một phần, một chương hay một môn học nhất định. Phương pháp này giúp HS phát triển năng lực khái quát hoá, hệ thống hoá, tránh nắm bắt những đơn vị tri thức rời rạc – giúp cho các em phát huy tính mềm dẻo của tư duy. Hỏi – đáp kiểm tra được sử dụng trước, trong và sau giờ giảng hoặc sau một vài bài học giúp GV kiểm tra tri thức HS một cách nhanh gọn kịp thời để có thể bổ sung củng cố tri thức ngay nếu cần thiết. Nó cũng giúp HS tự kiểm tra tri thức của mình. Như vậy là tuỳ vào mục đích và nội dung bài học, GV có thể sử dụng 1 trong 4 hoặc cả 4 dạng phương pháp vấn đáp nêu trên. Ví dụ khi dạy bài mới GV dùng dạng vấn đáp gợi mở, sau khi đã cung cấp tri thức mới dùng vấn đáp củng cố để đảm bảo HS nắm chắc và đầy đủ tri thức. Cuối giờ dùng vấn đáp kiểm tra để có thông tin kịp thời từ phía HS. Thông qua loại câu hỏi vấn đáp, GV có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người học, nhờ đó có thể đánh giá được thái độ của người họ Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 11 Trong thực tế dạy học thầy, cô đã sử dụng phương pháp đánh giá hồ sơ học tập cho học sinh như thế nào? Khi sử dụng đánh giá hồ sơ học tập, có thể kết hợp với các công cụ như bảng quan sát, câu hỏi vấn đáp, phiếu đánh giá theo tiêu chí rubric… Hồ sơ học tập dùng để kiểm tra, đánh giá trong dạy học Lịch sử có thể là các phiếu học tập, bài tập tình huống, bài tập vẽ, xây dựng qui trình chế biến, ảnh, video lưu lại quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập ngoài lớp học… Việc GV sử dụng các công cụ khác nhau nhằm thu thập được thông tin phục vụ cho việc kiểm tra đánh giá quá trình học tập của HS phụ thuộc vào cách thức tổ chức, chuyển giao nhiệm vụ học tập đó. Đáp án tự luận môn lịch sử module 3 thpt Câu 12 theo thầy/cô sử dụng phương pháp đánh giá sản phẩm có thể đánh giá được năng lực chung và phẩm chất của học sinh không? Sử dụng phương pháp đánh giá sản phẩm có thể đánh giá được năng lực chung và phẩm chất của học sinh vì vì đặc thù nội dung học tập của môn Lịch sử gắn với những sản phẩm thực tiễn trong học tập và trong cuộc sống. Ví dụ với mạch nội dung “Các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945” – Lịch sử 11, yêu cầu cần đạt là “Hoàn thiện được sơ đồ trục thời gian về các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945” thì sản phẩm học tập sẽ là một sơ đồ trục mà HS vẽ. Để kiểm tra, đánh giá được sản phẩm học tập này thì GV cần thiết kế bảng kiểm hoặc rubric đánh giá theo các tiêu chí hình thức sơ đồ trục; nội dung sơ đồ trục các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945;… Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 13 Về mục tiêu đánh giá; căn cứ đánh giá; phạm vi đánh giá; đối tượng đánh giá theo chương trình GDPT cũ với chương trình GDPT 2018 có gì khác nhau? Điểm khác nhua giưa chương trình phổ thông cũ và mới trong kiểm tra đánh giá học sinh – Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng theo định hướng tiếp cận năng lực từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ theo định hướng tiếp cận năng lực của học sinh của cấp học. – Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng. – Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này. – Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 14 Hãy tóm lược lại “Định hướng đánh giá kết quả giáo dục trong dạy học môn Lịch sử theo Chương trình GDPT 2018” theo cách hiểu của thầy, cô? Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học đánh giá tổng kết nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học đánh giá quá trình; Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo; Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học; Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá. Đáp án tự luận môn lịch sử mô đun 3 thpt Câu 15 Theo thầy/cô với mỗi chủ đề/bài học có cần phải xác định được cả 3 thành mỗi chủ đề/bài học có cần phải xác định được cả 3 thành phần năng lực Lịch sử . Tại vì đây là yếu tố ảnh hưởng tực tiếp tới quá trình học tập của mỗi học sinh, có thể liên lụy tới cả quả trình dạy học của các thầy cô giáo. phần năng lực Lịch sử hay không? Tại sao? Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 16 Hãy trình bày mục đích sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá? Mục đích sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đanh giá là Công khai hóa nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học sinh và tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập. – Giúp cho giáo viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của mình, tự hoàn thiện hoạt động dạy, phân đấu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Như vậy,mục đích sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đanh giá là nhằm mục đích nhận định thực trạng và định hướng, điều chỉnh hoạt động của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định ra thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 17 Hãy trình bày cách sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá? Cách sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá hoạt động nhóm, thuyết trình, phản biện Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 18 Thầy cô hãy cho biết quan điểm của mình về mục đích sử dụng hồ sơ học tập? Hồ sơ học tập có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, nhưng hai mục đích chính của hồ sơ học tập là – Trưng bày/giới thiệu thành tích của HS Với mục đích này, hồ sơ học tập chứa đựng các bài làm, sản phẩm tốt nhất, mang tính điển hình của HS trong quá trình học tập môn học. Nó được dùng cho việc khen ngợi, biểu dương thành tích mà HS đạt được, cũng có thể dùng trong đánh giá tổng kết hoặc trưng bày, giới thiệu. – Chứng minh sự tiến bộ của HS về một chủ đề/lĩnh vực nào đó theo thời gian. Loại hồ sơ học tập này thu thập các mẫu bài làm liên tục của HS trong một giai đoạn học tập nhất định để chẩn đoán khó khăn trong học tập, hướng dẫn cách học tập mới, qua đó cải thiện việc học tập của họ. Đó là những bài làm, sản phẩm cho phép GV, bản thân HS và các lực lượng khác có liên quan nhìn thấy sự tiến bộ và sự cải thiện việc học tập theo thời gian của HS. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 19 theo thầy, cô hồ sơ học tập nên quản lý thế nào? Qua mục đích của hồ sơ học tập có thể nhận thấy hồ sơ học tập mang tính cá nhân rất cao, mỗi hồ sơ có nét độc đáo riêng. Nó không dùng vào việc so sánh, đánh giá giữa các HS với nhau. Hồ sơ học tập tập trung vào hỗ trợ và điều chỉnh việc học của HS. Nó cho phép HS cơ hội để nhìn nhận lại và suy ngẫm về sản phẩm và quá trình mà họ đã thực hiện, qua đó họ phát huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế trong học tập. Hồ sơ học tập được sử dụng trong nhiều thời điểm khác nhau của năm học. Với hồ sơ đánh giá sự tiến bộ của HS thì sẽ được sử dụng thường xuyên. Sau mỗi lần lựa chọn sản phẩm để đưa vào hồ sơ, GV có thể tổ chức cho HS đánh giá cho từng sản phẩm đó. Vào cuối kì hoặc cuối năm, toàn bộ các nội dung của hồ sơ học tập sẽ được đánh giá tổng thể, khi đó GV cần thiết kế các bảng kiểm, thang đo hay rubric để đánh giá. GV cũng có thể sử dụng hồ sơ học tập trong các cuộc họp phụ huynh cuối kì, cuối năm để thông báo cho cha mẹ HS về thành tích và sự tiến bộ của HS. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 20 Thầy, cô hãy nêu nhận xét về việc một số phương pháp dạy học được sử dụng với mục đích đánh giá. Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh Tạo ra sự tương tác tốt Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 21 Bảng kiểm trong dạy học theo chương trình GDPT cũ với chương trình GDPT 2018 có gì khác? Có thể sử dụng bảng kiểm để đánh giá các hành vi hoặc các sản phẩm mà HS thực hiện như các thao tác tiến hành thí nghiệm khi khám phá kiến thức, thực hành, vận dụng; kĩ năng tự học khi thực hiện yêu cầu chuẩn bị nội dung bài học, tìm tòi mở rộng; kĩ năng giao tiếp và hợp tác khi tổ chức cho HS làm việc nhóm; các sản phẩm học tập như lập các sơ đồ bảng biểu để hệ thống hóa hay so sánh, các bài trình chiếu, bài thuyết trình, đóng vai, bài luận, các mô hình, vật thể,… Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 22 Thầy, cô hãy trình bày hiểu biết của mình về thang đánh giá? hang đánh giá dùng để đánh giá sản phẩm, quá trình hoạt động hay một phẩm chất nào đó ở HS. Với một thang đánh giá được thiết kế sẵn, người đánh giá so sánh hoạt động, sản phẩm hoặc biểu hiện về phẩm chất của HS với những mức độ trên thang đo để xác định xem HS đạt được ở mức độ nào. Thang đánh giá rất có giá trị trong việc theo dõi sự tiến bộ của HS. Nếu GV lưu giữ bản sao chép thang đánh giá qua một số bài tập/nhiệm vụ khác nhau ở những thời điểm khác nhau, sẽ có một hồ sơ để giúp theo dõi và đánh giá tiến bộ của mỗi HS. Để làm điều này một cách hiệu quả, cần phải sử dụng một khung tiêu chí chung và cùng một thang đánh như nhau giá trên tất cả các bài tập/nhiệm vụ đó. Bên cạnh đó, thang đánh giá còn cung cấp thông tin phản hồi cụ thể về những điểm mạnh và điểm yếu của mỗi bài làm của HS để giúp họ biết cách điều chỉnh việc học hiệu quả hơn. Thang đánh giá được sử dụng trong nhiều thời điểm khác nhau của quá trình dạy học và giáo dục. Chúng được sử dụng nhiều nhất trong quá trình GV quan sát các hoạt động học tập, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao của HS, trong quá trình quan sát các sản phẩm của HS hay dùng khi đánh giá các biểu hiện về phẩm chất nhất định của HS. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 23 Theo thầy, cô thang đánh giá nên chia 3 thang điểm hay 5 thang điểm tương ứng? Vì sao? Thang đánh giá nên chia 5 thang điểm tương ứng . vìệc đánh giá được thuận lợi hơn. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 24 thầy/cô cho ý kiến về việc sử dụng rubric cho học sinh đánh giá đồng đẳng về mặt định tính được hiệu quả? Đối với đánh giá định lượng Để lượng hóa điểm số của các tiêu chí trong bản rubric thành một điểm số cụ thể, GV cần tính tổng điểm các mức độ đạt được của từng tiêu chí sau đó chia cho điểm số kì vọng để qui ra điểm phần trăm rồi đưa về hệ điểm 10. Tùy thuộc vào việc rubric được xây dựng có bao nhiêu mức độ 3, 4, hay 5 mức độ mà việc tính điểm cho từng tiêu chí có thể khác nhau. Ví dụ GV sử dụng bản rubric có 5 tiêu chí để đánh giá một bài báo cáo của HS và mỗi tiêu chí đó được chia làm 4 mức thì mỗi mức ứng với một mức điểm từ 1 đến 4, trong đó mức 1 ứng với điểm 1 và mức 4 ứng với điểm 4. Giả sử các tiêu chí có giá trị như nhau. Như vậy, tổng điểm cao nhất điểm kì vọng về bài báo cáo của HS là 5 x 4 = 20. Khi chấm bài cho HS A, tổng tất cả các tiêu chí của HS đó được 16, thì HS A sẽ có điểm số là 16 20 x 100 = 80 tức là 8 điểm Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 25 Để đánh giá một rubric tốt thầy, cô sẽ đánh giá theo những tiêu chí nào? iệc sử dụng rubric để đánh giá và phản hồi kết quả thường được thực hiện sau khi HS thực hiện xong các bài tập/nhiệm vụ được giao. Hệ thống các bài tập này rất đa dạng, phong phú chúng có thể là các bài tập/nhiệm vụ có giới hạn đòi hỏi vận dung tri thức, kĩ năng trong một phạm vi hẹp và cần ít thời gian để thực hiện. Hoặc chúng cũng có thể là các bài tập/nhiệm vụ mở rộng có cấu trúc phức tạp đòi hỏi phải vận dụng nhiều tri thức, kĩ năng khác nhau và mất nhiều thời gian để hoàn thành như dự án học tập, đề tài nghiên cứu khoa học, nhiệm vụ làm thí nghiệm.. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 26 Vấn đề nào thầy, cô cho là khó khăn nhất khi xây dựng rubric đánh giá? Cần đưa ra các tiêu chí sẽ được sử dụng để đánh giá cho HS ngay khi giao bài tập/nhiệm vụ cho họ để họ hình dung rõ công việc cần phải làm, những gì được mong chờ ở họ và làm như thế nào để giải quyết nhiệm vụ. GV cần tập cho HS cùng tham gia xây dựng tiêu chí đánh giá các bài tập/nhiệm vụ để họ tập làm quen và biết cách sử dụng các tiêu chí trong đánh giá. Căn cứ vào các yếu tố cấu thành rubric, việc xây dựng rubric gồm xây dựng tiêu chí đánh giá và xây dựng các mức độ đạt được của các tiêu chí đó. Đáp án tự luận modul 3 môn lịch sử thpt Câu 27 Thầy / cô hãy chia sẻ kinh nghiệm của mình về việc xây dựng đề kiểm tra? Thực hiện kế hoạch bài kiểm tra hoàn chỉnh bao gồm các mục sau – Tên đề kiểm tra – Thời gian làm bài kiểm tra – Mục đích bài kiểm tra – Hình thức bài kiểm tra – Ma trận đề kiểm tra – Xây dựng câu hỏi kiểm tra – Xây dựng đáp án, biểu điểm – Chỉnh sửa và tiến hành kiểm tra Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 28 Thầy, cô hiểu như thế nào về câu hỏi “tổng hợp” và câu hỏi “đánh giá” Câu hỏi “tổng hợp” nhằm kiểm tra khả năng của HS có thể đưa ra dự đoán, cách giải quyết vấn đề, các câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo. – Tác dụng đối với HS Kích thích sự sáng tạo của HS, hướng các em tìm ra nhân tố mới… Câu hỏi “đánh giá” nhằm kiểm tra khả năng đóng góp ý kiến, sự phán đoán của HS trong việc nhận định, đánh giá các ý t¬ưởng, sự kiện, hiện tượng,… dựa trên các tiêu chí đã đ¬ưa ra. – Tác dụng đối với HS Thúc đẩy sự tìm tòi tri thức, sự xác định giá trị của HS. Đáp án tự luận môn lịch sử modun 3 thpt Câu 29 Thầy, cô hãy đặt 3 câu hỏi cho mục tiêu khai thác kiến thức trong dạy học môn Lịch sử? Câu hỏi vấn đáp Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt, đó là Mùa khô và mùa mưa Mù khô và mùa hanh. Mùa đông và mùa xuân Mùa thu và mùa hạ. Bảng hỏi ngắn Sắp xếp các sự kiện dưới đây theo đúng trình tự thời gian Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Trên bán đảo Triều Tiên ra đời hai nhà nước. Nội chiến giữa Quốc Dân đảng và Đảng Cộng sản. Trung Quốc thu hồi Hồng Công và Ma Cao. Thẻ kiểm tra Đặc điểm của người tinh khôn là gì? Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 30 Thầy, cô hãy đặt 2 câu hỏi nhằm thu hút sự chú ý của HS vào bài học? Khi Người tinh khôn xuất hiện thì đồng thời xuất hiện những màu da nào là chủ yếu? Giáo viên cho học sinh xem đoạn phim Mĩ thả bom nguyên tử xuống Nhật bản 6 hoặc 9/8/1945. Sau đó giáo viên đặt câu hỏi. Qua đoạn phim em có suy nghĩ gì? Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 31 Thầy, cô hãy đưa ra mục tiêu theo phẩm chất, năng lực trên cơ sở yêu cầu cần đạt của chủ đề sau YCCĐ chủ đề CCCTBVTQ Chưa đưa bảng vào Mục tiêu năng lực là buộc giáo viên phải đưa ra tình huống có vấn đề cho học sinh giải quyết nhờ vận dụng kinh nghiệm cuộc sống và từ một trường hợp cụ thể đó mà khái quát hóa thành bài học đạo đức. Tức, học sinh phải tư duy ít nhất 2 lần giải quyết vấn đề và khái quát hóa thành bài học. Ngoài ra, học sinh còn hình thành các năng lực khác như tự chủ học tập, giao tiếp với nhau, tư duy phản biện,… Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 32 Thầy/cô hãy liệt kê một số từ ngữ thể hiện mức độ yêu cầu cần đạt trong xác định mục tiêu chủ đề/bài học? Các phẩm chất Yêu nước; Trách nhiệm – Các năng lực thành phần Tìm hiểu lịch sử; Nhận thức và tư duy; Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 33 thầy, cô hãy viết ít nhất 1 ý nghĩa của bảng ma trận đánh giá chủ đề môn Lịch sử. Ma trận đề là bản đồ mô tả chi tiết các nội dung, các chuẩn cần đánh giá, nó là bản thiết kế kĩ thuật dùng để biên soạn đề kiểm tra, đề thi. Từ đó, việc đánh giá học sinh sẽ chính xác và đạt kết quả cao. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 34 Để lập kế hoạch đánh giá trong dạy học chủ đề môn Công nghệ theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS, cần xác định thông tin về bằng chứng năng lực, trả lời một số câu hỏi như thế nào? Đánh giá thành tố nào của năng lực Công nghệ? Tiêu chí tương ứng với thành tố năng lực đó là gì? Nội dung nào có yêu cầu cần đạt phù hợp với chỉ báo đó? Nội dung đó được kiểm tra bằng công cụ nào? Đánh giá phẩm chất nào? Tiêu chí tương ứng với phẩm chất đó là gì? Chỉ báo tương ứng với phẩm chất đó ở cấp THCS là gì? Nội dung nào có yêu cầu cần đạt phù hợp với chỉ báo đó? Nội dung đó được kiểm tra bằng công cụ nào? Đánh giá năng lực chung nào? Đánh giá thành tố nào của năng lực chung đó? Tiêu chí tương ứng với thành tố năng lực đó là gì? Chỉ báo tương ứng với năng lực đó ở cấp THCS là gì? Nội dung nào có yêu cầu cần đạt phù hợp với chỉ báo đó? Nội dung đó được kiểm tra bằng công cụ nào? Đánh giá năng lực đặc thù nào? Đánh giá thành tố nào của năng lực đặc thù đó? Tiêu chí tương ứng với thành tố năng lực đó là gì? Chỉ báo tương ứng với năng lực đó ở cấp THCS là gì? Nội dung nào có yêu cầu cần đạt phù hợp với chỉ báo đó? Nội dung đó được kiểm tra bằng công cụ nào? Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 35 Thầy, cô hãy mô tả mẫu phiếu học tập? phiếu này sử dụng cho hoạt động cá nhân là phù hợp nhất. Tuy nhiên GV cũng có thể cho HS hoạt động theo nhóm nhỏ có thể chỉ là cặp đôi. Khi tổ chức hoạt động nhóm, GV nên áp dụng kĩ thuật “khăn trải bàn” hoặc “những mảnh ghép” để đảm bảo tất cả HS trong nhóm đều phải tham gia làm việc. – Để đánh giá kết quả học tập qua phiếu học tập của HS có thể sửa dụng bảng kiểm hoặc thang đánh giá Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 36 Thầy, cô hãy mô tả bảng ma trận mục tiêu? Lập bảng ma trận mô tả mục tiêu theo các tiêu chínội dung, yêu cầu cần đạt,mục tiêu, phương pháp đánh giá,công cụ đánh giá Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 37 Với đặc thù môn học, giáo dục Lịch sử có lợi thế giúp HS phát triển các phẩm chất nào? Giáo dục Lịch sử có lợi thế giúp HS phát triển các phẩm chất sau Yêu nước nhân ái Trung thực Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 38 Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo được hình thành và phát triển cho học sinh qua dạy học môn Lịch sử như thế nào? ịnh hướng đánh giá năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo thông qua dạy học môn Lịch sử ở trường THPT Định hướng Có thể đánh giá năng lực chung giải quyết vấn đề và sáng tạo thông qua đánh giá NLa, NLc, nhưng đặc biệt rõ nhất là NLb Nhận thức và tư duy. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 39 Theo thầy/cô, phẩm chất, năng lực được đánh giá thông qua yếu tố nào? Cách đánh giá năng lực Lịch sử của HS nên theo đường phát triển năng lực. Mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về năng lực Lịch sử. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 40 Theo thầy/cô, việc xử lý kết quả đánh giá định tính và định lượng là như thế nào? Xử lý kêt quả đánh giá định tính Thông tin định tính thu thập hàng ngày trong quá trình dạy học, bao gồm Các bản mô tả các sự kiện, các nhận xét thường nhật, các phiếu quan sát, bảng kiểm, phiếu hỏi, thang đo…, thể hiện các chỉ báo đánh giá của GV, của phụ huynh, của bạn bè, HS tự đánh giá… được tập hợp lại. GV lập thành các bảng mô tả đặc trưng hoặc ma trận có sử dụng các tiêu chí đối chiếu với các mục tiêu, tiêu chuẩn để đánh giá, từ đó đưa ra các quyết định đánh giá như công nhận HS đạt hay chưa đạt yêu cầu của môn học. Để việc xử lí kết quả đánh giá dưới dạng định tính được chính xác và khách quan, GV cần dựa vào mục tiêu, yêu cầu cần đạt để đưa ra các tiêu chí đánh giá, mỗi tiêu chí lại gồm có các chỉ báo mô tả các biểu hiện hành vi đặc trưng để có bằng chứng rõ ràng cho việc đánh giá. Xử lý kêt quả đánh giá định lượng Các bài kiểm tra thường xuyên, định kì có tính điểm sẽ được qui đổi theo hệ số, sau đó tính điểm trung bình cộng để xếp loại HS. Trong thực tế, các cơ quan chỉ đạo, quản lí giáo dục sẽ có các văn bản hướng dẫn chi tiết cách tính điểm trung bình, xếp loại kết qủa đánh giá, GV cần tuân thủ các qui định này. Các kết quả đánh giá dạng cho điểm trên nhóm mẫu đủ lớn thường sử dụng các phép toán thống kê mô tả tính các tham số định tâm như giá trị trung bình, độ lệch, phương sai, sai số… và thống kê suy luận tương quan, hồi qui…. Điểm thô của mỗi cá nhân trên một phép đo được qui đổi thành điểm chuẩn dựa trên điểm trung bình và độ lệch để tiện so sánh từng cá nhân giữa các phép đo. ng học bạ điện tử của HS, dễ dàng nắm bắt thông tin về tình hình học tập hàng ngày cũng như các nhận xét, đánh giá của GV về sự tiến bộ trong học tập và rèn luyện của HS. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 41 Thầy/cô hãy chia sẻ ít nhất một ý kiến của mình về phản hồi kết quả đánh giThông tin bằng văn bản GV và nhà trường có thể thông báo công khai kết qủa trên các bảng thông báo kết qủa về các điểm kiểm tra. GV có thể gửi tới phụ huynh HS và HS kết quả đạt được về phẩm chất và năng lực, những thông báo này có thể được tiến hành thường xuyên hàng tháng, sau mỗi học kì, khi kết thúc năm học, đồng thời đưa ra những kiến nghị để gia đình và HS cùng có những phương hướng phối hợp để thúc đẩy HS tiến bộ. Khi phản hồi kết quả đánh giá nên bắt đầu bằng những điều tích cực mà HS đã đạt được và thông báo kết quả, đồng thời đưa ra những đề nghị trong giai đoạn tiếp theo. – Thông tin qua điện thoại GV có thể gọi điện thoại thông báo và trao đổi với phụ huynh và HS về sự tiến bộ trong học tập và rèn luyện của HS một cách ngắn gọn. Nên gọi điện cho gia đình trong những trường hợp có những tin tích cực về HS hoặc những đề nghị của nhà trường đối với gia đình, với HS. Không nên trao đổi qua điện thoại những vấn đề phức tạp. – Thông qua họp phụ huynh HS Đây là hình thức phổ biến nhất để trao đổi trực tiếp với phụ huynh HS về kết quả đạt được của HS. Hình thức thông báo kết qủa này cần được chuẩn bị chu đáo, đảm bảo đầy đủ các nội dung sẽ thông báo, chuẩn bị những câu hỏi đặt ra cho phụ huynh. Sự chân thành, nhiệt tình và trách nhiệm và sẵn sàng lắng nghe sẽ giúp GV hiểu rõ hơn về HS, tìm ra biện pháp để phối hợp tốt giữa gia đình và nhà trường, nâng cao mức độ đạt được về phẩm chất và năng lực cho HS. – Thông qua sổ liên lạc điện tử Sổ liên lạc điện tử là kênh thông tin giữa nhà trường và phụ huynh qua tin nhắn SMS và Internet. Mỗi HS có một bộ hồ sơ chứa thông tin về quá trình học tập của mình gọi là “Học bạ điện tử”. Ứng dụng sổ liên lạc giúp phụ huynh tra cứu thông tin trong học bạ điện tử của HS, dễ dàng nắm bắt thông tin về tình hình học tập hàng ngày cũng như các nhận xét, đánh giá của GV về sự tiến bộ trong học tập và rèn luyện của HS. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 42 Thầy, cô hãy trình bày quan niệm về đường phát triển năng lực học sinh Đường phát triển năng lực là kết quả phát triển năng lực của mỗi cá nhân HS. Căn cứ vào đường phát triển năng lực là tham chiếu, GV xác định đường phát triển năng lực cho mỗi cá nhân HS để từ đó khẳng định vị trí của HS đang ở đâu trong đường phát triển năng lực đó. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 43 Thầy cô hãy trình bày quan niệm về việc phân tích, sử dụng kết quả đánht giá theo đường phát triển năng lực để ghi nhận sự tiến bộ của học sinh. Trong thời điểm hiện tại, Suy đoán những kiến thức, kĩ năng HS chưa đạt được và cần đạt được những gì HS có thể học được nếu được GV hỗ trợ, can thiệp phù hợp với những gì HS đã biết và đã làm được. Ở bước này, GV có thể cho HS làm các bài test phù hợp để xác định những gì HS có thể học được tiếp theo trên cơ sở cấu trúc của năng lực và Rubric tham chiếu; Lập kế hoạch hỗ trợ, can thiệp.. để giúp HS tiếp tục học ở quá trình học tập kế tiếp trên cơ sở những kiến thức, kĩ năng đã có ở quá trình học tập ngay trước đó; Hợp tác với các GV khác để thống nhất sử dụng các phương pháp, công cụ thu thập bằng chứng, tập trung xác định những kiến thức, kĩ năng HS cần phải có ở quá trình học tập tiếp theo trên cơ sở cấu trúc của năng lực, chia sẻ các biện pháp can thiệp, tác động và quan sát các ảnh hưởng của nó. Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 44 Thầy, cô hãy đưa ra 2 mức độ cao trong năng lực đánh giá công nghệ? Mức 2 Đánh giá một số năng lực thành phần thuộc năng lực thực hiện một công việc trọn vẹn năng lực thành phần. Ví dụ Khi đánh giá thành tố năng lực tìm hiểu lịch sử, sẽ đánh giá HS từ khâu nhận diện các nguồn tư liệu, khai thác và sử dụng các nguồn tư liêu, tái hiện các sự kiện, hiện tượng lịch sử Mức 3 Đánh giá năng lực HS khi thực hiện được một công việc một cách trọn vẹn năng lực trọn vẹn. Ví dụ Với năng lực thành tố vận dụng kiến thức và kĩ năng lịch sử đã học. Ở mức cao nhất đánh giá năng lực HS khi thực hiện được việc liên hệ với một tình huống học tập trước đó một cách trọn vẹn trong tình huống thực tiễn. Ví dụ Từ bài học trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô năm 1985, yêu cầu HS rút ra bài học cho việc thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước hiện nay. Với tình huống này, vừa đòi hỏi HS có kĩ năng vận dụng, liên hệ thực tế Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 45 Thầy, cô hãy đưa 3 biểu hiện ở mức 1 của năng lực thiết kế công nghệ? nhận diện các tư liệu lịch sử Khai thác sử dụng thông tin kể, nêu sự kiện diễn ra Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 46 Thầy, cô hãy đưa ra 3 biểu hiện ở mức 2 của năng lực giao tiếp công nghệ? sử dụng kiến thức lịch sử để giải thích và mô tả một số sự kiện, hiện tượng trong cuộc sống vận dụng kiến thức để phân tích và đánh giá tác động của sự việc, hiệntượng vận dụng kiến thức lịch sử để giải quyết vấn đề thực tiên Đáp án tự luận môn lịch sử modul 3 thpt Câu 47Thầy/cô hãy trình bày những cơ sở của việc điều chỉnh, đổi mới phương pháp ơ sở của việc điều chỉnh, đổi mới phương pháp dạy học Kết quả của dạy học, giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho biết HS đạt mức nào đã/chưa biết, hiểu, làm được gì. Từ kết quả này, cần xác định mục tiêu tiếp theo cần biết, hiểu, làm được gì và cần xác định “bằng cách nào” HS đi được đến mục tiêu đó. Sự điều chỉnh, đổi mới PPDH giúp HS cách thức “tốt nhất có thể được” đi trên con đường này để đạt được mục tiêu dạy học. Từ các bằng chứng thu thập được về HS xác định được mức độ hiện tại của HS. Theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực, bằng chứng này cho biết “vị trí” của HS trên các đường phát triển năng lực thành tố hoặc trên một đường chung của một năng lực chung/đặc thù. Vị trí này thể hiện mức độ đạt được về yêu cầu cần đạt của năng lực, từ đó đối chiếu sang yêu cầu cần đạt về nội dung giáo dục để biết được mức độ đạt được về yêu cầu cần đạt thứ hai này. Đối chiếu này là cần thiết, vì năng lực là một “thứ” trừu tượng, cái hiện hữu phản ánh được các biểu hiện của nó là các biểu hiện đạt được về mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ, hành vi yêu cầu cần đạt về nội dung giáo dục. Trong đó, biểu hiện quan sát được rõ nhất là “kĩ năng” và khả năng vận dụng kiến thức làm được gì, cùng với nó là thái độ và hành vi của HS. Sự qui về “nội dung” này cho thấy nếu khó sử dụng các đường phát triển năng lực thì có thể xây dựng và sử dụng các thang đo đánh giá truyền thống cũng như các khung đánh giá năng lực dựa trên yêu cầu cần đạt về nội dung giáo dục. Mục tiêu tiếp theo thể hiện mục tiêu cần đạt, nó không giống nhau đối với các HS khác nhau, nó cũng không giống nhau khi xét trên các năng lực thành tố khác nhau của cùng một HS. Dưới đây là một ví dụ mô tả mức độ/vị trí hiện tại và mục tiêu/vị trí tiếp theo của một HS về năng lực thành phần tìm hiểu lịch sử. Từ vị trí hiện tại và tiếp theo này, có thể dựa vào mô tả biểu hiện hành vi của năng lực thành phần tìm hiểu Lịch sử ở các mức độ khác nhau để điều chỉnh, đổi mới PPDH cho phù hợp dạy học trong môn học. Đáp án tự luận môn lịch sử module 3 thpt Câu 48Thầy, cô hãy chia sẻ quan niệm về đnh hướng điều chỉnh, đổi mới phương pháp dạy học môn học. Việc điều chỉnh, đổi mới PPDH ở đây được hiểu là vận dụng/điều chỉnh/cải thiện những phương pháp, kĩ thuật và hình tổ chức dạy học phù hợp, và đôi khi có thể đề xuất được biện pháp mới kĩ thuật/PPDH hoặc hình thức tổ chức các hoạt động học để HS chuyển được từ vị trí hiện tại đến vị trí tiếp theo. Link tải xuống Đáp án, hướng dẫn học tập môn lịch sử modul 3 thpt’ Tải xuống link fshare TẢI XUỐNG LINK GOOGLE Liên hệ Liên hệ Thầy Hoàng – Giáo viên trường PTDTBT THCS Nậm Ban. Facebook Fanpage Youtube Nhóm Vui học mỗi ngày Xem thêm Đáp án, hướng dẫn bài tập modul 3
Tháng 8 năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công bố "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử". Trong chương trình này, Bộ Giáo dục xác định sẽ dạy cho học sinh các kỹ năng "tư duy lịch sử" historical thinking skills và "tư duy phản biện" critical thinking skills. Tư duy lịch sử được Chương trình khung nói trên giải thích là “nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử”, “hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập”, “tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết về diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp.” Quan niệm coi việc giáo dục lịch sử là giáo dục kĩ năng “tư duy lịch sử” là một điều mới ở Việt Nam ngày nay; nhưng không mới ở các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đưa ra yêu cầu khá chi tiết đối với việc giáo dục “tư duy lịch sử” cho học sinh trong "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử" công bố tháng 8 năm 2022 có thể được coi là một bước tiến bộ hay không? RFA trao đổi với một số chuyên gia quốc tế về vấn đề này. Cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979 được viết sơ sài trong Sách giáo khoa lớp 12. Ảnh Đại học Quốc gia Hà Nội Vì sao “tư duy lịch sử” lại quan trọng? Trong một bài viết bằng tiếng Anh gửi cho RFA để chia sẻ về những trải nghiệm cá nhân đối với việc học sử ở Hoa Kỳ thời kì trung học, Tiến sỹ Nu-Anh Tran, một Giáo sư sử học ở Đại học Connecticut, cho biết trong chương trình Tú tài Quốc tế International Baccalaureate - IB mà bà được học hồi nhỏ ở bang Washington, bà và bạn học đã được thực hành tranh luận với nhau về cách diễn giải quá khứ. Dưới đây là một trích đoạn trong bài được RFA dịch sang tiếng Việt. “Cuộc tranh luận về lịch sử đầu tiên mà tôi từng đọc thời trung học là một loạt bài viết về nguyên nhân của Cách mạng Nga, và các tác giả thực sự không đồng ý với nhau. Đọc những bài báo đó, tôi nhận ra rằng lịch sử không chỉ là về những sự thật và sự kiện về những gì đã xảy ra trong quá khứ, mà còn là cách chúng ta giải thích và diễn giải những sự kiện đó, cũng như tầm quan trọng của những sự thật đó. Các nhà sử học không phải là tác giả sách giáo khoa thông thạo mọi thứ, mà là những nhà tư tưởng tìm kiếm và vật lộn với bằng chứng, để đưa ra những lập luận cạnh tranh với nhau về cách hiểu quá khứ.” Giáo sư Olga Dror, một chuyên gia về lịch sử Việt Nam ở Đại học Texas A&M, giải thích với RFA vì sao trên thế giới người ta lại quan niệm về giáo dục lịch sử như vậy. Theo Giáo sư Olga, sử học không phải là một khoa học chính xác như các môn khoa học tự nhiên hay một số môn khoa học nghiên cứu về xã hội như kinh tế học, xã hội học. Đó là một môn học có tính “chủ quan”. Khi nhìn về quá khứ, chúng ta không có “quá khứ” mà chỉ có “tư liệu về quá khứ”. Chúng ta phải nghiên cứu các tư liệu này và diễn giải chúng để tạo ra nhận thức về lịch sử. Vì vậy, mỗi người với những tư liệu khác nhau, cách phân tích tư liệu khác nhau, sẽ cho ra những nhận thức khác nhau về quá khứ. Chính vì lí do này, bản thân việc “nghiên cứu tư liệu lịch sử” và “diễn giải tư liệu lịch sử”, tức là “kĩ năng tư duy lịch sử”, trở nên vô cùng quan trọng. Vẫn chưa đi ra khỏi vòng kim cô? Trao đổi với RFA, Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa Chính trị học, Đại học Oregon, cho rằng chúng ta phải xem cách Bộ Giáo dục hay tác giả các bộ sách giáo khoa cụ thể hóa chương trình khung này thì mới đánh giá được. Giáo sư nói “Việc nhấn mạnh vào các kĩ năng tư duy này là rất tốt, là cái mới. Nếu họ thực sự làm được thì rất tốt. Nếu họ cho phép tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện phát triển đúng theo cách hiểu khoa học của những khái niệm này thì rất là hay. Miễn là họ đừng bóp méo nó đi, kiểu như “tư duy phản biện” thì chỉ phê phán Mỹ chứ không được phê phán Việt Nam, hay “phản biện” thì chỉ phản biện những quan điểm lịch sử trái với Nhà nước thôi, chứ không phải là phản biện quan điểm Nhà nước.” Thành ra khái niệm mà Chương trình khung đưa ra thì hay, nhưng nội dung thực thế như thế nào, cách vận dụng ra sao, thì còn phải xem xét thêm. Đi vào chi tiết của Chương trình khung nói trên, Giáo sư Vũ Tường chỉ ra rằng, ở Mục số II, “Quan điểm xây dựng chương trình”, Chương trình Khung này đưa ra năm nội dung là “Khoa học, hiện đại”, “hệ thống, cơ bản”, “thực hành, thực tiễn”, “dân tộc, nhân văn”, “mở, liên thông”. Theo Giáo sư, nội dung đầu tiên của quan điểm “Khoa học, hiện đại”, là “quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam” thì hỏng rồi, vì một tổ chức chính trị dù lớn đến mấy cũng không hiển nhiên đại diện cho tính “khoa học, hiện đại”, mà ngược lại, tổ chức đó có nhiệm vụ phải cố gắng đạt được tính “khoa học, hiện đại”. “Mục tiêu hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử theo nguyên tắc “khoa học lịch sử”, qua đó phát triển “tư duy lịch sử”, “tư duy phản biện” chỉ nằm ở vị trí thứ 3. Vì nằm ở vị trí thứ yếu, nó phải được hiểu là phát triển tư duy lịch sử sao cho quán triệt quan điểm của Đảng. Ví dụ, hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử thì có thể hiểu là đi thăm quê hương cụ Trần Phú, viếng mộ mẹ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục “thực hành, thực tiễn” nói đến một số kĩ thuật giáo dục mới, như thay vì học tại lớp thì học tại thực địa, như tại các bảo tàng, di sản. Nhưng ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng, di sản được được thiết kế cẩn thận thành một mạng lưới phục vụ nhu cầu chính trị của Đảng cầm quyền, trong khi đó nội dung thực tế của sự thật lịch sử cần khám phá thì rộng lớn hơn thế rất nhiều. Các nội dung về tính “dân tộc, nhân văn” thì tôi nghĩ sẽ không có gì mới so với cách dạy cũ, vì khái niệm “dân tộc, nhân văn” ở Việt Nam cũng được chính trị hóa, kiểu như yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội chẳng hạn.” Ở phần III, Mục tiêu Chương trình, chương trình khung này có đặt ra yêu cầu giúp học sinh “nhận diện các loại hình tư liệu lịch sử”. Giáo sư Vũ Tường cho rằng điều này rất hay, nhưng chúng ta phải xem tư liệu lịch sử nào là tư liệu học sinh trong thực tế được phép tiếp cận và phân tích, thảo luận cởi mở, tư liệu nào bị cấm, coi như không tồn tại. “Về mục tiêu dạy cho học sinh kĩ năng phân tích các quá trình lịch sử thì lâu nay lịch sử chính thống vẫn dùng cách “cưỡng ép lịch sử,” tức là loại trừ tư liệu này, nhấn mạnh tư liệu kia. Chúng ta phải xem cách nhà giáo dạy học sinh cách đánh giá tư liệu nữa. Trong mỗi giai đoạn, sự kiện, nhân vật, có tư liệu thứ yếu và tư liệu chủ yếu. Tất cả đều phải được xem xét chứ không phải loại trừ những tư liệu quan trọng, coi như chúng không tồn tại, trong khi đó lại nhấn mạnh những tư liệu thứ yếu. Nói chung có nhiều vấn đề phải xem xét ở đây.” Tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên Theo Giáo sư Vũ Tường, ở đây vấn đề cốt lõi không chỉ là giáo dục “tư duy lịch sử” cho học sinh mà là “tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên”. Ông giải thích, trong chính trị, đại khái, chủ nghĩa đa nguyên chủ trương là tất cả các bên, các thành phần chính trị xã hội khác nhau đều được tham gia vào quá trình thảo luận của Nhà nước để ra một quyết định nào đó. Không có nhóm nào bị loại bỏ, dù họ nhỏ bé đến mấy đi nữa. Người ra đặt ra yêu cầu như vậy vì thực tế chính trị xã hội rất đa dạng, chứ không ở đâu và khi nào lại có một lực lượng duy nhất là có ý nghĩa, còn các nhóm khác “đáng” bị loại bỏ cả. Các quá trình lịch sử trong quá khứ cũng tương tự như vậy. Có rất nhiều biến số, nhiều lực lượng, nhiều nhóm hiện diện trong mỗi giai đoạn lịch sử, với những động lực khác nhau. Trong quá khứ, họ có thể hợp tác hay va chạm với nhau tùy thời điểm, và những gì họ để lại đều là tư liệu lịch sử. Do đó thường thì có nhiều tư liệu lịch sử của nhiều bên khác nhau cùng liên quan đến một sự kiện lịch sử, một quá trình lịch sử. “Tư duy lịch sử đa chiều” là chúng ta khảo sát và phân tích tư liệu của tất cả các chiều, chứ không sử dụng một nguồn tư liệu duy nhất và loại bỏ các nguồn tư liệu đến từ các chiều nhìn, góc nhìn khác. Độc tôn một nguồn tư liệu thì chỉ tạo ra một bức tranh lịch sử phiến diện. “Tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên” do đó rất cần thiết để hiểu một quá trình lịch sử nào đó trong quá khứ một cách toàn diện và đúng đắn. Chính vì sự đa dạng này của đời sống chính trị xã hội, mỗi nhóm xã hội sẽ có một nguồn tư liệu lịch sử khác nhau, do đó nhìn lịch sử cũng khác nhau. Giáo sư Vũ Tường lấy ví dụ, cùng một sự kiện, một quá trình lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn lịch sử theo kiểu này, nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhìn lịch sử theo kiểu khác. Người Việt trong nước nhìn thế này, người Việt hải ngoại nhìn thế khác. Cùng là nhìn lại một cuộc chiến, nam giới có thể nhìn lịch sử kiểu này, phụ nữ có thể nhìn kiểu khác, những “anh hùng” của cuộc chiến đó có thể nhìn lại theo kiểu này, còn những người dân có số phận nhỏ bé, bình thường thì nhìn kiểu khác. Cái nhìn lịch sử đa chiều, đa nguyên là sử dụng, tham chiếu, khảo sát tất cả các góc nhìn đó cũng như những tư liệu lịch sử mà tất cả các bên lưu giữ. Trong Chương trình khung nói trên của Bộ Giáo dục, Giáo sư Vũ Tường chỉ ra là Bộ Giáo dục nói là sẽ dạy học sinh kĩ năng tái hiện các sự kiện, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp. Ta có thể lấy ví dụ như một vụ nổ bom sự kiện đơn giản, hay sự ra đời của một nhà nước hay cả cuộc chiến tranh Lạnh quá trình lịch sử phức tạp. Họ không nói đến tính đa chiều, đa nguyên của tư duy lịch sử. Thành ra những gì Chương trình khung nói là đúng, nhưng không đầy đủ. Cái thiếu sót là một tư duy lịch sử “đa chiều” chấp nhận sự đối thoại sử học dựa trên các tư liệu lịch sử “chính thống” hay “phi chính thống”. Tư liệu lịch sử chính thống là tư liệu cho các nhà nước sưu tập, lưu giữ, công bố. Nhà nước nào, thời nào, ở đâu cũng có những bộ tư liệu chính thống như vậy. Ví dụ thời phong kiến, “Đại Việt Sử kí Toàn thư” là tư liệu chính thống, còn “Lĩnh Nam chích quái” là phi chính thống. Còn đối với lịch sử thế kỉ 20 ở Việt Nam, ví dụ, các bộ Văn kiện Đảng là tư liệu chính thống, còn lời kể của những số phận nhỏ bé đã phải kinh qua chiến tranh là tư liệu phi chính thống. Quan điểm lịch sử hiện đại là chấp nhận những nguồn tư liệu phi chính thống, tư liệu của những người không thuộc tầng lớp tinh hoa, những người không có điều kiện và phương tiện để cất lên tiếng nói của họ. Tư duy lịch sử đa chiều không đánh giá về giá trị của tư liệu lịch sử bằng cách dựa vào “vị thế” chính thống hay phi chính thống của nó, vì “vị thế” này sẽ thay đổi theo thời đại chứ không tồn tại vĩnh viễn, mà là khảo sát tính xác thực của nó, giá trị của nó trong việc tìm hiểu quá khứ. Dựa trên những bằng chứng khác nhau mà mỗi bên đưa ra, và thừa nhận rằng quan điểm của mỗi bên, dựa trên tư liệu của mỗi bên, chỉ là một phần của bức tranh lịch sử và cần bổ sung cho nhau. Các bên khác nhau liên quan đến một quá trình lịch sử nào đó có những vị trí, thế đứng, tư liệu khác nhau. Những điều này cần bổ sung được cho nhau để có được cái nhìn đầy đủ về lịch sử. GS Vũ Tường lấy ví dụ thời Trần, có “Đại Việt Sử kí Toàn thư” của Việt Nam, có “Nguyên sử” của nhà Nguyên, có “An Nam chí lược” của Trần Ích Tắc… Mỗi nguồn tư liệu đều đến từ các lực lượng chính trị khác nhau, có góc nhìn khác nhau. Hoặc đối với chiến tranh Việt Nam thế kỉ 20, tư liệu lịch sử đến từ “Oral History”, tức là “Lịch sử nói”, ghi lại cuộc đời, số phận của những con người “nhỏ bé” sẽ cung cấp cho người nghiên cứu sử một phần khác của lịch sử, bổ sung cho bức tranh lịch sử của những nhân vật lịch sử “lớn”. Đối với chiến tranh Việt Nam, trước đây giới sử gia quốc tế hầu như chỉ quan tâm đến tư liệu từ phía Bắc Việt. Nhưng sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, người ta thoát khỏi sự chi phối của tinh thần chiến tranh Lạnh, người ta bắt đầu nghiên cứu về hệ thống tư liệu do phía Việt Nam Cộng Hòa để lại. Và từ những tư liệu này, một phần khác của bức tranh lịch sử, bao gồm lịch sử kinh tế, lịch sử chính trị, lịch sử văn hóa, giáo dục, báo chí, tinh thần… được tái hiện để soi chiếu với bức tranh trước đây, vốn chỉ tập trung vào lịch sử quân sự. Các góc nhìn khác nhau này sẽ giúp nhận thức lịch sử toàn diện hơn. Nhưng vấn đề là phải học các kĩ năng tư duy lịch sử để phân tích được các tư liệu đó, và học được tinh thần chấp nhận các tư liệu lịch sử phi chính thống, có thể đem đến những ánh sáng mới, khác với cách nhìn chính thống, thậm chí xung đột với cách nhìn chính thống. Do đó, Giáo sư Vũ Tường cho rằng “Ở bất kì thời nào, phía chính thống luôn có nhiều nguồn lực và phương tiện để xây dựng hệ thống tư liệu và quan điểm lịch sử chính thống một cách hệ thống. Phản biện hệ thống quan điểm này không dễ. Giáo dục tư duy lịch sử phải chấp nhận khả năng sinh viên hay học sinh tìm ra các tư liệu có khả năng đối thoại với hệ thống đó. Đó là những gì diễn ra trong lịch sử giáo dục hiện đại trên thế giới. Thậm chí ở các nền giáo dục tiên tiến ngày nay, người ta làm điều đó dễ hơn nữa vì thực ra họ không đặt ra một quan điểm chính thống về lịch sử.” Triết lý giảng dạy và phương pháp giảng dạy lịch sử như trên tác động rất lớn đến sự hứng thú học tập lịch sử của học sinh. Ở Việt Nam, nhiều năm nay, người ta lên tiếng báo động về việc học sinh không thích học sử. Giáo sư Olga Dror chia sẻ với RFA rằng việc học sinh sinh viên không thích theo đuổi môn sử là khá phổ biến trên thế giới, bởi một trong những lí do chủ yếu là môn sử khó giúp cho người học dễ dàng tìm kiếm việc làm trong tương lai như các ngành học khác. Nước Mỹ cũng không phải là ngoại lệ, trừ ngành sử ở những trường đại học thuộc nhóm “tinh hoa”. Nhưng ở Mỹ, theo GS. Olga, học sinh sinh viên được huấn luyện kĩ năng tư duy lịch sử để phát triển tính sáng tạo. Điều này giúp cho việc học sử của họ trở nên thú vị. Theo Giáo sư Olga Dror, điều quan trọng nhất của việc giáo dục kĩ năng tư duy lịch sử cho học sinh, sinh viên là xây dựng khả năng sáng tạo của họ. Quá trình nghiên cứu và diễn giải tư liệu lịch sử, theo bà, giống như là một phương trình của sự sáng tạo. Khảo sát về "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử" của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, bà nhận thấy nó chưa thực sự hướng đến mục tiêu ấy. Vốn sinh ra và lớn lên ở Liên Xô và sau đó du học Israel và Hoa Kỳ, GS Olga nhận xét rằng học sinh, sinh viên Hoa Kỳ “đang làm tốt hơn bởi vì họ được học cách diễn giải tư liệu lịch sử. Lịch sử thực sự là một công cụ tuyệt vời để thực hành kĩ năng xử lý, phân tích, giải thích và phát triển dữ liệu lịch sử.”
hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử