bát quan trai giới

15:42 18/10/2022. Hưởng ứng Chiến dịch "Làm cho thế giới sạch hơn năm 2022", Cục Hải quan Hải Phòng đã triển khai nhiều hoạt động, mang lại những kết quả thiết thực. Những hoạt động ý nghĩa của Hải quan Hải Phòng đã góp phần bảo vệ môi trường sống trong sạch, khơi Website: http://bodephatquoc.org/Channel:https://www.youtube.com/channel/UC-NHxZinVV8ayr3AtKpqIPwhttps://www.youtube.com/channel/UCkH_uKEGtUwtagWkdv5cdVQFace Trai giới nghĩa là gì. Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời). Chữ “Quan” là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ “Trai”, tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội Trong việc thọ trì Bát quan trai giới, nếu có thể xin thọ giới với một vị Tỳ Khưu là tốt nhất, nếu không có được như vậy thì tự phát nguyện, nên thực hành như sau: 1. Đảnh lễ Tam bảo. Sáng sớm, sau khi vệ sinh thân thể sạch sẽ, trang nghiêm chỉnh tề y áo, nên thắp 3 Months Of Dating What To Expect. TU GIỚIPhật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh. Có điều, không phải như thuốc Tây, được bào chế như thế nào thì đồng loạt các người bịnh dùng như vậy, chỉ hơi khác nhau về cân lượng tùy theo thể trọng của mỗi người. Phật pháp tuy cũng một pháp môn có thể được truyền dạy cho nhiều người như nhau, nhưng để cho sự thực hành có hiệu quả hơn, cũng cần phân biệt thành phần xã hội, trình độ nhận thức, và kinh nghiệm từng trải của mỗi người mà phương pháp thực hành có thể một vài sai quan trai giới cũng trong trường hợp như vậy. Tất nhiên, Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào. Nhưng vì trình độ nhận thức, và nhiều lý do khác nữa, một Phật tử nhận thức ý nghĩa của giới pháp một cách cá biệt, và do đó thọ giới với cứu cánh riêng có thể hiểu rõ sự khác biệt này, trước hết chúng ta nói về chữ người đến chùa cầu thọ bát quan trai giới đều có một ý niệm như nhau, là mình đang tu giới. Nhưng, thế nào là tu?Đối với những Phật tử lớn tuổi, khi mà trách nhiệm đối với đời coi như không đáng kể, đối với các vị này, tu là cầu phúc. Tu giới ở đây đồng nghĩa với tu phúc. Tức là thọ trì giới pháp của Phật để gieo trồng quả phúc, hầu mong đời sau được hưởng. Có người muốn đời sau sang giàu hơn, hoặc thông minh, hoặc có địa vị xã hội cao hơn, cho đến, làm vua làm chúa. Cũng có người mong muốn đời sau được nhiều thuận duyên, để học và thâm hiểu Phật pháp, do đó trình độ tu tập cao với các Phật tử như vậy, tu bát quan trai đơn giản là đến xin giới, rồi thực tập quá đường, trang trọng bưng bình bát cúng dường mười phương Tam bảo. Do tính cách trang trọng, và những bài kinh chú cúng dường linh thiêng, nên sẽ mang đến nhiều phước báo hơn là tự mình cúng Phật ở nhà. Ngoài việc cúng dường trước khi thọ thực như vậy, Phật tử thọ trì bát quan trai không cần học hỏi gì thêm về bản chất của giới pháp, ý nghĩa của từng giới tướng. Cho nên, cũng không cần biết công năng của giới này có thể dẫn đến phước báo cao hơn nữa, mà cao nhất là đạo quả vô lậu Niết niệm thông thường của thế gian cho rằng tu là sửa đổi ác làm lành, cải tà qui chánh. Đây là mặt tiêu cực của chữ tu. Tu thân để tề gia, mà cứu cánh cũng chỉ là bình thiên hạ. Cứu cánh cũng chỉ lẩn quẩn trong thế gian này, thăng trầm theo con sóng vô thường biến dịch, mang theo trong thân và tâm dấu ấn khó xóa nhòa của quá khứ tham, sân, si, vô lượng phiền não, cấu bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo. Trong ý nghĩa này, tu có nghĩa là phát triển, làm cho bản thân càng lúc càng cao thượng ngang tầm Thánh đạo, để càng lúc càng nhìn thấy rõ dấu chân dẫn đến Niết bàn. Tu như vậy là tu giới, tu định và tu huệ. Ba khoản tu tạo thành một chuỗi quan hệ liên người nói tu cốt tại tâm. Điều này đúng một phần. Nhưng nếu không biết huấn luyện thân, khuất phục nó không buông lung theo bản năng hưởng thụ; ấy thế mà nói đến sự tu tâm thì nhiều có vẻ không tưởng. Tu thân, chính là tu giới. Tu tâm chính là tu định. Có định mới dẫn đến huệ phát sao nói tu thân là tu giới? Trong năm giới của tại gia, và tám giới của cận trụ tức bát quan trai, những điều cần học là ngăn cản thân và khẩu không làm những sự xấu giới, đấy là trau dồi đạo đức; cũng có thể nói là tu sửa thân tâm, trau dồi phẩm chất đạo đức để cuộc sống của mình thanh cao hơn. Tu định, tất nhiên là không phải tu sửa định rồi. Tu định là tu tập để phát triển năng lực làm chủ thân tâm; tập trung tư tưởng, không buông lung tâm ý, để tăng cường khả năng nhận thức, khai mở trí tuệ. Cuối cùng là tu huệ, cũng không có nghĩa là tu sửa huệ mà có nghĩa là phát triển và nâng cao nhận thức của mình, mở tầm mắt của mình để thấy rõ sự vật. Trong cái ý nghĩa tu giới, ta hỏi “giới là gì?” Thông thường ta hiểu giới là những điều ngăn cấm. Nhưng trong kinh Phật thì giới còn có nhiều nghĩa hơn thế nữa. Giới, ý nghĩa chính của nó, đó là cái phẩm giá của con người. Trì giới là giữ gìn cái phẩm chất đạo đức của mình, cái giá trị con người của tập giới là nâng cao phẩm giá con người của mình. Nói thông thường là phẩm chất đạo đức, cái làm nên giá trị con người. Phẩm chất con người là thế nào? Ta sinh ra trong xã hội loài người sống, lớn lên và chết. Với người bình thường, không làm việc ác gây tai hại cho mình, cho xã hội, giữ cuộc đời mình trọn vẹn để chết không hối hận mình đã làm hại người khác. Đạo đức ở đời chỉ cao bằng mức tu giới của người Phật tử là nâng phẩm chất con người cao hơn nữa, vượt lên trên giá trị con người hiện sao ta có thể vượt qua giới hạn con người? Mỗi người sinh ra với mục đích gì? Cha mẹ sinh ra ta; lớn lên, có gia đình; có bổn phận đối với gia đình, đối với xã hội, làm thế nào cho gia đình được hạnh phúc và đóng góp cho xã hội được bình an. Như vậy là đủ tu tập giới, tự thân thấy có cái cao quý hơn thế này không thể nói trong một vài lời mà phải bằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tu tập của mình; mới biết thế nào là cao hơn. Ở dưới chân núi không có tầm mắt nhìn, chỉ thấy đến ngọn cây; nhưng có người hướng dẫn mình leo đến đỉnh núi, mới biết là đỉnh núi cao. Có thể mình không ý thức mình lên cao đến cỡ nào, nhưng một thời gian sau bằng quá trình tu tập thì có thể thấy. Tu giới phải ý thức như vậy mới thấy có hiệu quả, còn không thì tu giới chỉ làm việc lành gọi là diệu hạnh làm điều tốt với quả báo đời sau sinh ra giàu sang hơn, hạnh phúc hơn, sáu căn đầy đủ, thông minh hơn. Dù có thông minh cỡ nào, như nhà bác học, vua chúa, thì cũng chỉ trong phạm vi con người, không chiến thắng nổi cái già, cái chết, còn nhiều cái không chiến thắng nổi, nghĩa là mình vẫn làm nô lệ cho một cái gì đó mà mình không người sinh ra trong một gia đình làm nô lệ cho người khác; cha mẹ làm nô lệ, cả dòng họ làm nô lệ, lớn lên mình cũng không biết làm nô lệ cho cái có người nào đến mở đường mở lối, chỉ cho biết giá trị của con người, mới biết là mình nô lệ mà tìm cách thoát khỏi thân phận nô lệ của mình. Chúng ta cũng thế sinh ra ở đời, trăm đời nghìn đời quen nô lệ cho một sức mạnh nào đó mình không hiểu được, chưa ai hiểu, chưa ai thấy được. Quen như vậy, chấp nhận thân phận như đứa trẻ sinh ra bị ghẻ lở. Hạnh phúc của nó là được ngồi bên đống lửa, và gãi. Càng gãi càng thấy đã ngứa; nhưng càng gãi thì càng thêm lở lói. Bà con thân nhân thấy tội nghiệp, muốn hạnh phúc an lạc cho nó, nên đưa đến lương y để trị. Nó la khóc, nói rằng chú bác, cha mẹ, hung ác; nó đang ngứa mà không cho gãi; đang ngồi bên lửa ấm thế này mà mang nó đi đâu, hành hạ nó. Về sau, khi lành hết ghẻ ngứa; bấy giờ bảo thò tay gãi nó cũng không dám gãi; bảo ngồi bên lửa thì nó nói là nóng quá, đi chỗ khác ta là những người đang chìm đắm trong bùn lầy hôi thối, nhưng mấy ai thấy rõ chúng ta đang sống trong bùn lầy? Khó thấy lắm. Như đứa bé sập xuống bãi sình, thấy lún thì mừng, nói là đất lún hay quá; đến khi ngộp thở thì hết khóc được. Đức Phật bằng nhiều phương tiện cứu vớt chúng sinh ra khỏi vũng sình sinh tử đó. Vớt lên rồi, Ngài khiến cho tắm sạch bằng nước của giới, xông ướp bằng hương thơm của định, và cho đeo tràng hoa chuỗi ngọc bằng huệ. Sau đó người ấy muốn đi đâu thì đi, với một thân hình sạch sẽ thơm tho, bằng vòng hoa chuỗi ngọc, trở thành một con người cao quý, tham dự tất cả chúng hội nào; các triều đình vua chúa cũng tới được. Hiểu được mình đang trong sình lầy, hiểu được thế nào là nguồn nước trong của giới, hương thơm của định và thế nào là tràng hoa an lạc của huệ. Điều này phải hành mới thấy đầu tiên đó là thọ giới. Tùy căn cơ Phật đặt ra nhiều cấp bậc giới. Như mỗi người sinh ra với thể xác khác nhau; người yếu, thân hình ốm 35 kg, thì vác 20 kg; người mập mạnh khỏe có thể vác cả trăm kg. Giới luật được đặt ra cũng vậy. Tùy theo căn cơ, theo trình độ, năng lực đạo đức hay tự kềm học giới theo Phật như đứa trẻ tập đi, tất nhiên phải té; nếu không có bố mẹ dìu đỡ; không thể tự mình ráng gượng dậy tự đi, không thể không té tu Phật cũng thế. Thọ giới, có thể phạm rất nhiều; nhưng biết là phạm thì phải sửa. Không ai sinh ra mà đi được liền; dù con vua nếu tập đi mà cung nhân không đỡ thì cũng té và cũng khóc thôi. Nhưng bản năng té thì đứng dậy. Có người không nghị lực té xong nằm luôn, không đứng dậy nữa. Như người tu Phật ban đầu tinh tấn, nhưng một thời gian sau thoái hóa, đọa lạc, không bao giờ đứng dậy nổi. Vì vậy, từ bước đi căn bản, Phật chế ngũ giới. Nâng cao lên một bậc nữa là bát quan trai NGHĨA BÁT QUAN TRAIBát quan trai, theo nghĩa đen chữ Hán, là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Giới bát quan trai chính xác được gọi là giới cận trụ. Nghĩa là, sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh để thấy được giá trị. Còn cao hơn nữa, cận trụ được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A La Hán, là bậc Thánh xuất thế nghĩa cận trụ, giới bát quan trai còn được gọi là giới bố tát hay trưởng tịnh trì giới làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt trong một chữ nhưng hai nghĩa cận trụ, sống gần gũi đời sống cao thượng của một bậc Thánh. Với người xuất gia tất cả giới luật là khuôn mẫu đạo đức đều noi gương đời sống của một vị A La Hán. Mặc dù tâm tư của người ấy có thể còn nhiều hờn giận, ham muốn, nhưng bên ngoài, đi đứng nằm ngồi, tác phong đạo đức thường xuyên noi theo gương mẫu của Thánh nhân, học tập theo Thánh nhân. Người tại gia không thể làm được như vậy, mà chỉ có thể tập gần, tập làm quen. Gần như vậy sẽ thấy có một niềm tin rằng thế gian này chắc chắn có bậc thánh, có vị A La Hán, là bậc Chân nhân đạo đức toàn vẹn, dứt sạch tham, sân, si; sống luôn luôn an lạc, không còn bị chìm đắm trong cõi luân hồi đau khổ. Đó là niềm tin hướng thượng, từ đó mà tìm thấy ý nghĩa và hướng đi cho đời sống của chỗ tin tưởng này, có thể phát triển tính lành, không cần cấm sát sanh, không cần cấm trộm cắp, mà tự nhiên mình sẽ không làm việc đó vì tin tưởng có một giá trị rất cao mà mình đang học. Đó là nghĩa tích cực của giới. Cho nên, giới không đơn giản có ý nghĩa tiêu cực là sự cấm đoán. Tuy rằng, khi học giới người học được dạy là không nên làm điều này, hãy nên làm điều kia. Người khôn ngoan, có trí trong đời, biết rõ đâu là con đường chí thiện, là đường tốt để mình đi. Đâu là con đường xấu, tự mình tránh; không cần ai cấm. Đó là học giới cho người hiểu biết; có trí tuệ. Còn đối với người không đủ năng lực để phân biệt những gì là cao thượng và thấp kém, thì những sự cấm cản là cần thiết. Như người lớn khôn ngoan khi thấy lửa, thấy thuốc độc, không bao giờ thò tay lấy và xử dụng một cách vô ý thức. Nhưng trẻ nít hay người chưa hiểu biết thì gặp gì cũng ăn, cũng uống, rất nguy hiểm. Với những người như vậy tất nhiên cần phải có sự cấm cản; quy định rõ những điều nên làm và không nên làm. Ý NGHĨA THỌ GIỚIChỉ các bậc Thánh A-la-hán trong đời mới phân biệt rõ bằng trí tuệ vô lậu rằng cái gì độc hại, không độc hại. Ngoài ra, các hạng phàm phu, kể tất cả chư thiên và loài người, bị trùm kín trong màn vô minh u tối, khó có thể định rõ con đường trước mắt mình, nên đi theo lối nào; cũng không thể nhận rõ những gì là độc hại; cho nên Phật chế giới, để theo đó mà hành trì. Vì vậy, các chúng đệ tử Phật, khi đã quy y Tam bảo, phải thọ trì các cấm giới là sự phát nguyện một cách tự nguyện tuân thủ những điều Phật cấm, để tự rèn luyện bản thân, tu tập thân và tu tập tâm, nâng cao phẩm chất đạo đức, giá trị hướng thượng của con người của mình. Do sự phát nguyện này, phát nguyện đúng cách, đúng pháp, trong tự thân người thọ giới phát sinh một năng lực gọi là phòng hộ. Năng lực ấy được thí dụ như là bờ đê, ngăn cản những dòng nước bẩn không cho chảy vào ao nước ta như hồ nước. Nước vốn trong sạch nhưng chung quanh nhiều rác; và thường xuyên dòng nước đục từ bên ngoài tràn vào làm vẩn đục, hồ trở thành dơ bẩn và độc hại. Cho nên, cần có bờ đê ngăn lại để cản các dòng nước bẩn không chảy vào tâm. Vậy nên hiểu theo thí dụ giới là bờ đê. Làm thế nào để đắp thành bờ đê và giữ cho vững chắc? Đó là ý nghĩa thọ giới và trì không thọ giới Phật cũng có thể sống trọn cuộc đời đạo đức gương mẫu. Nhưng đó là đạo đức bẩm sinh, có tính tự phát. Giống như con nai hiền lành; và suốt đời cũng chỉ hiền lành như vậy, không có gì tiến bộ cao cả hơn. Trong người ấy không có năng lực phòng hộ; do đó không có sự tăng trưởng của giới. Nói cách khác, người ấy sinh ra với tính thiện, như hạt giống tốt, quý hiếm, mà được cất kỹ trong kho, không mang ra gieo trồng thì không bao giờ thành cây, để cho hoa cho tháng có 6 ngày thọ giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30. Hoặc 8 ngày, nêu thêm mồng 7 và truyền thuyết tín ngưỡng cổ xưa ở Ấn độ, người đời tin rằng vào các ngày đó ma quỷ thường quấy nhiễu loài người, và cũng là những ngày mà Thiên đế và bốn vị Hộ thế Thiên vương đi tuần hành nhân gian để giúp đỡ những ai làm điều thiện. Vì thế người đời bấy giờ mới bày ra chuyện dâng cúng phẩm vật, cầu khẩn thần linh phò hộ, trừ ma quỷ, ban cho nhiều điều phước, nhiều tài lộc, may mắn. Người tin Phật không tin vào những chuyện hối lộ Thần thánh kiểu đó; chỉ tin vào những nghiệp thiện ác do chính mình làm, và những hậu quả lành dữ của nó. Cho nên, thay vì cúng bái, cầu khẩn, chúng ta tu tập bát quan trai khác, người chưa sống ở miền quê thì chưa thấy được tác dụng của ngày âm lịch. Người miền quê qua nhiều thế hệ có kinh nghiệm nhận thấy rằng tính tình con người thường thay đổi theo từng mùa trăng, từng con trăng. Con trăng thay đổi, khi tròn khi khuyết, tánh tình theo đó cũng ít nhiều biến đổi, hiền hòa hơn hay hung dữ hơn; dễ vui hơn hay dễ cáu gắt hơn. Thọ giới vào những ngày này có tác dụng rất lớn đối với sự tu tập thân nay, đời sống hàng ngày tập trung vào các đô thị lớn, nhật thực nguyệt thực đều ít khi biết nên chu kỳ trăng không cần thiết. Đời sống càng ngày càng xã hội hóa, tại các thành phố chỉ có chu kỳ xã hội, cho nên đến ngày thứ Sáu, hay thứ Bảy trong tuần thì con người có cảm giác khác với các ngày thường khác, cảm giác ngày chủ nhật cũng khác liền. Vậy không nhất thiết phải theo mùa trăng, mà ngày chủ nhật thọ giới cũng được. Hiệu lực của sự thọ giới phân làm hai loại. Một là giới tận hình thọ, tức phát nguyện thọ rồi thì trì suốt đời; cho đến khi chết thì giới tự động xả. Hoặc chưa chết, nhưng không còn tin tưởng, không còn thích thú trong việc trì giới, mà tự mình tuyên bố, xả giới, hay bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bấy giờ giới thể cũng mất. Thứ hai là giới một ngày một đêm. Đó là giới cận trụ. Sau khi thọ, giới thể chỉ tồn tại luân lưu trong thâm tâm người thọ một ngày một đêm, từ khi mặt trời mọc hôm nay đến mặt trời mọc hôm sau. Hết thời hạn này, giới tự động xả. Tại các thành phố lớn không thể tính thời hạn một ngày theo ánh sáng mặt trời được, mà phải tính theo thời khắc của đồng hồ. Mốc khởi đầu của một ngày để thọ giới bát quan trai có thể ấn định từ 6 giờ sáng hôm nay cho đến 6 giờ sáng hôm sau. Sau 24 giờ, dù có lên chùa làm lễ hay không, giới vẫn tự động xả. Nếu có lên chùa làm lễ xả, đó chỉ là sự hồi hướng; tức nguyện đem công đức trì giới một ngày hướng vào ước nguyện nào bát quan trai không thể tự thọ; mà cần phải thọ từ một Sa-di hay Tỳ kheo ni cũng được. NỘI DUNG TÁM GIỚIBát quan trai giới, là trai giới có 8 chi. Nội dung các chi, theo ý nghĩa, chia làm 4 phần. 1. Giới tự tánh, gồm có 4 chi sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Nói là tự tánh, vì đó là phẩm chất cơ bản nhất của con người. Mất đi những phẩm chất này thì cũng mất luôn giá trị làm người, mà đọa lạc xuống thành hàng súc sinh, động vật thấp. Phật xuất hiện hay không xuất hiện ở đời, 4 phẩm chất này là cần thiết để được tái sinh làm người. Tuy nhiên, khi có Phật ra đời, quy định thành điều học; và Phật tử phát nguyện thọ trì, bấy giờ tự thân giới phát triển thành năng lực vừa phòng hộ, vừa nâng cao tâm của người thọ trì hướng về Thánh chi này là căn bản của ngũ giới. Có sự khác biệt trong 8 giới là không được dâm dục, trong khi năm giới chỉ tránh sự tà dâm. Do hiệu lực của năm giới là thọ suốt đời, mà trong 8 giới chỉ thọ một ngày một đêm, nên thể của các giới này cũng có sự khác nhau. Như giới sát sanh. Trong năm giới, nó có giá trị phòng hộ để không bị báo ứng đau khổ về sau, là phước báo trong loài người mà thôi. Trong 8 giới, nó không những tăng cường năng lực phòng hộ, mà còn phát triển thành nhân tố tích cực, trở thành năng lực đối trị phiền não, chế ngự và diệt trừ tâm sân hận, từ đó dễ dàng chứng đắc các thiền, cao hơn nữa là các Thánh quả. 2. Một chi trừ phóng dật, là chi giới cấm uống rượu, dùng các chất say; những thứ khiến cho tâm trở thành buông lung, không được kiểm soát. Trong năm giới, chi tránh uống rượu chỉ là sự phòng hộ không để say sưa, mất tự chủ, rồi dẫn đến phạm các giới khác. Trong 8 giới, chi tránh xa uống rượu này trở thành năng lực ngăn trừ sự phóng dật, hay buông dạy có một pháp dẫn tới Niết bàn và có một pháp khiến các người làm nô lệ cho ma quỷ tức ma vương, tử thần. Một pháp, nếu ai thành tựu, có đầy đủ, ai có nó nằm ngay trong lòng mình, người có pháp đó sẽ không bao giờ thoát khỏi bàn tay của ma vương, của tử thần. Đó là phóng dật, buông một pháp thoát khỏi sự khống chế của ma vương đi tới cứu cánh an lạc, đó là không buông lungBuông lung là sự buông thả, hay xao lãng, làm càn, làm dở, không tự kiểm soát mình, là không tỉnh giác. Như học trò muốn thi đậu. Ngày mai thi, bài học chưa thuộc, nhưng lại buông lung theo các các trận bóng đá, mà hậu quả là sự thi trượt. Đó là trạng thái buông lung không kiềm chế được. Người có buông lung thì không làm gì nên nổi sự nghiệp lớn; luôn luôn thất lung gồm có buông lung thân, buông lung tâm. Buông lung thân là thế nào? Mệt một chút thì đi nằm, ngồi học một chút buồn ngủ quá thì đi ngủ. Người tu ngồi lần chuỗi mới được nửa chuỗi thì nghĩ tưởng đủ thứ chuyện. Buông lung tâm là xao lãng, mất chánh niệm, suy nghĩ viễn vông, không tập trung tâm ý vào điều thiện, nên cũng dễ được dẫn đến chỗ làm càn, làm bậy. 3. Hai chi ngăn trừ kiêu mạn. Một, tránh không ngồi nằm trên các thứ giường tòa cao rộng. Hai, tránh trang sức các thứ tràng hoa, anh lạc, thoa ướp hương thơm; cũng tránh không ca múa, hát xướng, cố ý xem nghe. Trong giới sa-di, hai chi này được phân thành ba, vì mục đích học tập chánh đời, giai cấp và địa vị xã hội là những tiêu chuẩn để phẩm định giá trị một người. Ông hoàng đế khi vi hành, chỉ mang theo vài ba lính hầu, phục sức như dân dã; chẳng ai sợ, cũng chẳng được ai tôn kính. Thuở xưa, vua Ba-tư-nặc mỗi khi ra khỏi hoàng cung đều có tiền hô hậu ủng, gươm, giáo, tàn lọng; nhưng khi đến tinh xá hầu Phật; ông bỏ hết tất cả nghị trượng vua chúa quyền uy ấy, chỉ một mình đi bộ đến giảng đường, cúi lạy Phật. Không thể bước vào Thánh đạo với tâm kiêu mạn, với cảm tưởng quyền uy, giàu sang nào cả. Phật nói, như bốn con sông lớn khi chảy vào biển cả, chỉ còn một vị mặn duy nhất; cũng vậy, đời có phân biệt bốn giai cấp sang hèn khác nhau, nhưng khi bước vào Thánh đạo, tất cả hòa thành một hương vị duy nhất, là hương vị giải thoát. 4. Một chi là thể của bát quan trai. Đó là chi không ăn phi thời, làm nền tảng cho tất cả 8 điều. Do chi không ăn phi thời này mà bản chất giới sát sinh, trong 5 giới khác với thể của các chi trong 8 ta biết rằng, trong phong tục Trung hoa, khi một ông Vua muốn làm lễ tế thiên địa, thì trước đó phải dọn mình cho sạch sẽ bằng cách trai giới một tuần tức 10 ngày. Trai giới ở đây là kiêng cữ rượu thịt và sắc tục lệ tôn giáo Vệ-đà của Ấn độ, người gia chủ muốn làm dâng lễ Soma cho thần linh, trước hôm hành lễ cũng phải trai giới, tức không ăn tục lệ như vậy thuộc về tín ngưỡng, nặng tính cầu nguyện, không ảnh hưởng gì đến việc tu tập của Phật tử. Nhưng, những ngày mà họ chọn để hành lễ thì quả thật có ý ra, trong xã hội nông nghiệp cổ xưa, các hiền triết hay đạo sĩ sống trong rừng, do quan sát tâm tư mình hay do tiếp xúc với dân chúng, họ nhận thấy, tâm tư con người vào những ngày này rất dễ bị tác động; hoặc dễ cáu kỉnh hơn ngày khác, hoặc dễ cảm thấy hoan hỷ hơn. Nhưng vì không thể lý giải bằng ngôn ngữ của lý trí, nên họ biểu hiện ý nghĩa đó qua tín ngưỡng thần linh, rằng tình trạng thay đổi tâm tính bất thường như vậy là do ma quỷ quấy nhiễu, hay do thần linh phò Phật tử đã thọ Tam quy Ngũ giới thì không có ngày nào là không tránh xa sự sát sinh, trộm cắp, nói dối, Nhưng sự tránh xa này chỉ là trạng thái tiêu cực. Rồi khi thọ trì trai giới, tránh không ăn phi thời, thì sự không ăn phi thời này chính là lực tác động khiến cho năng lực phòng hộ của giới được tăng trưởng. Vì vậy, giới này cũng được gọi là giới Trưởng tịnh. Vì sao? Ý nghĩa cũng đơn giản thôi. Người đời, sự ăn và sự uống là một phần của sự sống cho nên không cảm thấy có gì khác lạ trong sự ăn uống hằng ngày. Nay thọ trì trai giới, ý thức rằng từ trưa nay cho đến sáng mai, mình không ăn và chỉ uống những thứ được quy định là như pháp; do đó mà trong tâm thường trực hiện hành một năng lực phòng hộ, tránh không ăn phi thời. Năng lực này làm nền tảng, cũng là làm chất xúc tác, để cho năng lực phòng hộ của các giới khác tự nhiên luân lưu và tăng trưởng. Do đó, nếu người thọ trì giới bát quan trai mà ăn phi thời, thì thể của trai giới tự động khác, với người đời, bữa ăn chiều tối là chính. Trong đó, không chỉ ăn uống, tiệc tùng, hưởng thụ các thứ vật dục, các lạc thú trần gian; mà đó còn là các mối quan hệ xã hội, là cơ hội giao tiếp, bàn bạc các công việc làm ăn, thiện có ác có. Nói cách khác, đó là thời gian thắt chặt các sợi giây ràng buộc của xã hội. Một ngày tránh ăn phi thời, là tạm thời tránh xa những quan hệ ràng buộc xã hội như vậy. Chính do sự tránh xa này mà người tại gia cảm nghiệm được ý nghĩa viễn ly, rõ được giá trị của sự giải thoát khỏi những buộc ràng thế tục. Đó chính là khởi đầu của Thánh đạo. Cho nên, giới này cũng được gọi là giới cận trụ; là giới mà năng lực phòng hộ dẫn người thọ trì đi gần đến Thánh ý nghĩa như vậy, sự thọ trì bát quan trai giới chính là thọ trì sự không ăn phi thời. Những nghi thức khác, như cúng dường ngọ trai, hay tụng kinh, bái sám, chỉ là các hình thức hỗ trợ cho giới thể được vững mạnh. Đó không phải là những điều cốt yếu trong sự thọ trì bát quan trai Phật, các cư sĩ như Ông Cấp Cô Độc, hay Bà Tỳ-xá-khư, là những nhà đại phú hộ; có cơ nghiệp gia sản to lớn. Họ vẫn thường xuyên thọ trì trai giới. Vào ngày thọ giới, họ đến chùa xin giới với một vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni, sau đó trở về nhà, quản lý công việc làm ăn buôn bán như thường. Nhưng do sự không ăn chiều, trong thân tâm họ giới thể tự nhiên luân lưu trọn một ngày đêm. Đa số người thọ giới vì thói quen ăn chiều nên muốn được châm chước. Tức là xin được ăn cháo, hay các thứ bột ngũ cốc cho đỡ đói. Làm như vậy thì sự thọ trì trai giới không còn ý nghĩa là trì giới, mà chỉ là việc làm lành để cầu phước thôi. Thật ra, nhịn đói một ngày, chẳng thiệt hại gì. Trái lại, nếu tập nhịn được, người thọ trì sẽ thấy ích lợi vô cùng của giới pháp này. Tất nhiên, chỉ những ai có hành mới có TRƯỞNG THIỆN CĂNTrong các thiện căn, thứ nhất là tín tâm, thứ hai là tinh tấn. Tinh tấn chính là nghị lực, nó là gốc rễ của thiện căn, không có nghị lực, không phát triển thiện căn tấn hiểu là siêng. Siêng thì ai cũng siêng được, vì người đời sống thì cần phải làm việc chứ ngồi không dễ sinh chán, ngồi xem TV hoài, thích thú mấy rồi cũng có lúc mệt mỏi, chán chường. Siêng năng như vậy không phải là tinh tinh tấn là người có nghị lực. Nhiều người cứ nghĩ nghị lực là làm việc gì lớn lao như bậc đại trượng phu. Dù làm việc lớn việc nhỏ gì cũng phải giữ vững quyết tâm, phải kiên trì; từ chuyện nhỏ cho tới chuyện lớn, đã quyết định thì không bỏ. Đó là nghị lực cần được huấn luyện. Ở đời, dễ mất nghị lực. Có nhiều người khi hứa thì hăng hái, dũng mãnh. Rồi sau đó thì nguội dần, cho đến khi tắt hẳn. Tất nhiên mọi sự đều có lý do biện hộ; đều có cái lẽ tại vì, hay bởi vì. Chính các cớ sự được dẫn ra để biện hộ cho sự thoái thất của mình ấy nuôi dưỡng sự buông lung trong ta một ngày một nghị lực, thì tín tâm rồi cũng sẽ mất; các pháp thiện cũng bị xao lãng và dần dần đi đến chỗ đoạn tuyệt. Cho nên, có tín thì phải có tấn, có đủ nghị lực mới có thể tập trung chú ý, tức có niệm. Có niệm, có tập trung chú ý, mới có nhận thức đúng, chân chính; tức có thế nào để phát triển các thiện căn này, là tín, tấn, niệm, định, huệ?Học tập thọ trì bát quan trai giới để gần gũi đời sống một vị A-la-hán, để có chánh tín nơi Thánh đạo, biết rõ có con đường thánh, có con đường ra khỏi thế gian cho mình đi. Tinh tấn là nghị lực. Niệm, tức chánh niệm, không xao lãng pháp thiện, không quên bỏ mục đích tối thượng của đời mình. Niệm thông thường để có niềm tin. Niệm là nhớ, suy nghĩ, từ suy nghĩ cho đến chánh niệm. Trong tu bát quan trai giới, người Phật tử thọ giới được khuyên dạy là nên tu tập pháp môn lục niệm tức đối tượng để chiêm nghiệm và suy niệm. Đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên. Đây cũng là một phần của việc tu Phật, là niệm những phẩm tính của Phật. Phật là đáng Đại giác, đã diệt trừ phiền não, đạo đức toàn vẹn, không còn tham sân si; Phật là đấng Ứng cúng, Chánh biến tri, là đấng Giác ngộ hoàn toàn… 10 hiệu của Phật là nghĩ đến những đức đại từ, đại bi, đại trí, đại tuệ chứ không phải chỉ niệm mà không biết Pháp là niệm những lời dạy của đức Phật. Pháp của đức Thế Tôn khéo nói, khéo giảng dạy; pháp đó vốn thanh tịnh, ly dục, nếu mình thực hành thì có hiệu quả ngay, đem an lạc ngay trong hiện tại; pháp mà Phật giảng dạy là đến để mà thấy, để chứng nghiệm, chứ không phải đứng xa xa mà nghe. Nếu không đến, không thực hành, không chứng nghiệm thì không thể hiểu được. Đó là tính chất Pháp của Phật giảng Tăng. Tăng là chúng đệ tử của Phật, những vị đang đi trên con đường thánh đạo, đang thực tập, là phàm Tăng hoặc là thánh Tăng đang hướng đến Niết bàn hay chứng đạo quả Niết bàn, có thật những vị Tăng trong thế gian. Niệm Phật, Pháp, Tăng để có chánh tín rằng có Thánh đạo ngay trong cõi đời Thí là suy niệm về sự thực hành bố thí có hiệu quả. Ở thế gian thực tập hạnh thí xả; xả bỏ tiền tài, danh vọng, không tham lam chấp trước tài Giới là suy niệm làm thế nào giới không bị khuyết, không bị vỡ, không bị sứt mẻ, không bị hoen ố, không bị tì vết như viên ngọc, phẩm chất trong Thiên là suy niệm rằng ngoài cõi người này còn có cõi trời, thế giới của thiên thần, xa hơn nữa có thế giới của Bồ Tát, của Phật, ít nhất là trên cõi người còn có những thế giới cao hơn con vun trồng được thiện căn, cơ bản là thành tựu được bát quan trai giới, nó sẽ phát sinh ra hiệu quả mình sẽ thấy, mình cảm nhận được Phật Pháp vi diệu, đưa mình lên đời sống cao hơn, càng thấy phẩm giá mình càng lúc càng lên cao. Phật pháp không lìa khỏi thế gian. Điều đó có nghĩa Phật pháp chính là sự sống. Hiểu Phật pháp là hiểu lẽ sống của mình. Sống phải biết mục đích sống, tại sao mình sống, tại sao mình chết. Sống cả cuộc đời, làm ăn vất vả lam lũ, may mắn thì làm vua làm chúa, cuối cùng chả biết đi về đâu; thế thì uổng mong các Phật tử sau một ngày thọ trì trai giới, thấy mình được gần Thánh đạo hơn một bước. Bát quan trai là thực hành hạnh xuất gia trong một ngày một đêm. Do vậy, thọ trì Bát quan trai giới là một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp tu tập của người Phật tử hướng đến giải thoát, giác ngộ. Bát quan trai giới, tiếng Pàli là Uposatha Sila, Hán dịch là Cận trú giới, Cộng trú giới, Thiện túc giới, Bát giới và Trai giới… Nghi thức thọ Tam quy và Ngũ giới và Bát quan trai giới Ý nghĩa và lợi ích của khóa tu thọ Bát Quan Trai A. MỞ ĐỀ Đức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định, huệ". Trong "giới, định, huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm kiến tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới. B. CHÁNH ĐỀ I. ĐỊNH NGHĨA Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm 24 giời. Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ 12 giờ trưa không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗisau đây 1. Không được sát sanh 2. Không được trộm cướp 3. Không được dâm dục 4. Không được nói dối 5. Không được uống rượu 6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát. 7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ 8. Không được ăn quá giờ ngọ II. GIẢI RÕ TÁM ĐIỀU RĂN CẤM NÓI TRÊN 1. Không được sát sanh a Ý nghĩa vì sao không được sát sanh Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để trốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô cùng. Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng. Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừngsát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta cũng nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cảnđừng cho người ta thi hành ác ý ấy. Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta. 2. Không được trộm cướp Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp. Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa? Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế. Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu. Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta. 3. Không được dâm dục Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng "Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được". Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục. Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng. Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục. Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành diệt dục. 4. Không được nói dối Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ Giới. Đó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn. Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy ! Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân thật. 5. Không được uống rượu Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám. Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu". Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn. Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa. Đấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống nữa. 6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem Năm giác quan tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng tađến cảnh giới Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta. Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi. Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất địnhkhông được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta. Đưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùngquý báu cho sự tu hành của chúng ta. 7. Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn Điều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ. Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác... Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dịđạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này. 8. Không được ăn quá giờ ngọ Trong luật Phật dạy "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ". Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây Ít mống tâm sai quấy Ít buồn ngủ Dễ được nhất tâm Ít hạ phong Thân được yên ổn và ít sanh bệnh. Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn. Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này. C. KẾT LUẬN 1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn lao Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích choPhật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toànthạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác. Chúng ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thâu hoạch được trong 24 giờ ấy mà xem. Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Đối với chung quanh, ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng. Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải mà họ đã nâng niu, quý trọng. Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm, cùng những người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính trọng. Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chung quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta. Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì con ma men này hành hạ. Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh, mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát. Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị cái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách. Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm. Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng24 giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thế nữa? 2. Bởi vậy Phật tử nên thực hành Bát quan trai giới Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt. Nếu không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi íchkhông bằng đến chùa. Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnhgiải thoát, rồi khuyên nhiều người thực hành theo, để cùng nhau tiến bước lên đường giải thoát, an vui. ________________________________________ NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều. Ngoài trường hợp trên, nếu không có thuận tiện để cầu thầy truyền cho, thì phương tiện tự mình đối trước tượng Phật , theo phép như sau đây mà tự thọ. Một điều cốt yếu, trước khi thọ giới, giới tủ phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế, không còn lo nghĩ việc gì ở thế gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như thế thì 24 giờ thọ giớimới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi ích nhiều, giới tủ nên vào chùa thọ Bát quan trai giớitốt hơn. Trước khi thọ giới, phải rửa tay,rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trước bàn thờ Phật , thắp ba cây hương rồi quì xuống, đọc bài cúng hương BÀI CÚNG HƯƠNG Nguyện thử diệu hương vân Biến mãn thập phương giới Cúng dường nhứt thiết Phật Tôn Pháp chư Bồ Tát Vô biên Thinh Văn chúng Cập nhứt thiết Thánh Hiền Duyên khởi quang minh đài Xứng tánh tác Phật sự Phổ huân như chúng sanh Giai phát Bồ đề tâm Viễn ly chư vọng nghiệp Viên thành Vô thượng đạo Xá 3 xá, tiếp đọc bài khẩn nguyện BÀI NGUYỆN Tư thời Đệ tử tên họ gì pháp danh pháp danh gì kim nhựt qui đầu Tam Bảo, phát nguyệnthọ trì Bát quan trai giới, nhứt nhựt nhứt dạ. Duy nguyện thập phương chư Phật , chư Đại Bồ Tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi gia hộ Đệ tử thân tâm thanh tịnh, Phật sự viên thành. Xá đứng dậy cắm hương xướng lễ Nhứt tâm đảnh lễ, tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo 1 lạy. Nhứt tâm đảnh lễ Ta Bà Giáo chủ, Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật , Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật , Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. 1 lạy. Nhứt tâm đảnh lễ Lạc bang Giáo chủ, Đại từ, Đại Bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật , Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bố Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 1 lạy Đứng dậy chắp tay tụng bài Đại bi Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. 3 lần. Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà la ni. Nam mô hắc ra đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bà ra da, bồ đề tát đóa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ ta bà ha. Án tát diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo 3 lần. Quì xuống chắp tay đọc bài Sám hối BÀI SÁM HỐI Đệ tử đã làm các nghiệp ác, Đều do vô thỉ Tham, Sân, Si, Từ thân, miệng, ý mà sanh ra Tất cả Đệ tử xin sám hối. Đọc 3 lần rồi đứng dậy Nam mô Cầu sám hối Bồ Tát Ma ha tát 3 lần, lạy 3 lạy Lạy xong quì xuống chắp tay đọc bài phát nguyện thọ Bát quan trai giới BÀI PHÁT NGUYỆN THỌ GIỚI MỘT LÀ GIỮ GIỚI KHÔNG SÁT SANH Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không sát hại các loài sanh vật. Tự mình không sát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá HAI LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự mình không trộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm cướp, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá BA LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤC Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không phá phạm hạnh không dâm dục. Tự mình không phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc thấy người khác phá phạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng.1 xá BỐN LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nói dối. Tự mình không nói dối, không bảo người nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá NĂM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không uống rượu. Tự mình không uống rượu, không bảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá SÁU LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG ĐIỂM VÀ CA HÁT Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tự mình không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát, hoặc thấy người khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá BẢY LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM NGỒI GIƯỜNG CAO TỐT Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự mình không nằm ngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt, hoặc thấy người khác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá TÁM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI THỜI Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự mình không ăn phi thời, không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời, cũng không sanh tâmvui mừng. 1 xá Đứng dậy xướng ba lần Ma ha Bát nhã Ba la Mật đa Tâm kinh Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, Sắc bất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không , không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. bát quan trai bát quan trái giớ nghi thức bát quan trai hạnh xuất gia thọ bát quan trai như thế nào 8 giới cho phật tử tại gia tu bát quan trai phật tử tại gia cư sĩ TIN LIÊN QUAN Bát quan trai giới là một phương pháp tu hành của người tại gia thọ trì 8 giới, áp dụng trong một ngày một đêm 24 giờ. “Bát” là tám, “Quan” là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. “Trai” nghĩa là khi đã qua giờ ngọ 12 giờ trưa không được ăn. Vậy “Bát quan trai giới” là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cướp; 3. Không dâm dục; 4. Không nói dối; 5. Không uống rượu; 6. Không trang điểm, dầu thơm, múa hát và xem múa hát; 7. Không nằm ngồi giường cao rộng đẹp; 8. Không ăn quá giờ ngọ; Theo Tuệ Sỹ “Bát quan trai, nghĩa đen là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Giới bát quan trai chính xác được gọi là giới cận trụ. Nghĩa là, sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh. Còn cao hơn nữa, cận trụ được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A La Hán, là bậc Thánh xuất thế gian. Ngoài nghĩa cận trụ, giới bát quan trai còn được gọi là giới bố tát hay trưởng tịnh trì giới làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt trong mình….” 1. Giới thứ nhất Không sát sinh. Dứt mạng sống gọi là sát, loài hữu tình là sinh. Chúng sinh có hình dáng khác nhau, nhưng cùng tham sống, sợ chết, biết đau khổ, vui mừng. Là Phật tử , nghĩa là những người theo đạo Từ bi, cần phải cố gắng không sát hại sinh vật. Sát hại người, trong Ngũ giới Phật đã tuyệt đối cấm. Do đó khuyến khích người Phật tử ăn chay, không giết hai sinh vật. Trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy giữ giới không sát sinh. Ta không giết, không trù tính mưu mô giết, cũng không nên bảo người khác giết, không vui khi thấy người giết. Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành. 2. Giới thứ hai Không trộm cướp. Những vật thuộc quyền sở hữu của người khác, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, boc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp. Ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Giữ được giới này, dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành. 3. Giới thứ ba Không dâm dục. Dâm dục là cái gốc của sinh tử luân hồi, Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục, Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được ngoại tình. Ngày thọ Bát quan trai giới, phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục, cũng không được nghĩ đến những điều dâm dục. 4. Giới thứ tư Không nói dối. Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, đó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Nếu thực hành giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân thật. 5. Giới thứ năm Không uống rượu. Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc. Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy “Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu”. Là Phật tử , những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn. Ngày thọ “Bát quan trai giới”, chúng ta không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống rượu. 6. Giới thứ sáu Không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát … Phật cấm Phật tử trang điểm, sơn phấn, dầu thơm, múa hát… là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát… Ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta không được trang điểm, múa hát hay đi xem múa hát…Đưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng ta. 7. Giới thứ bảy Không được nằm ngồi giường cao đẹp. Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải thi hành giới thứ bảy này. 8. Giới thứ tám Không được ăn quá giờ ngọ. Trong luật Phật dạy “Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ”. Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này. Trong Kinh Phật Thuyết Trai Do có một lần Đức Phật trụ ở nhà Thừa tướng tại Xá Vệ Thành. Sáng sơm hôm đó, mẹ Thừa tướng là bà Duy Da phu nhân dậy sớm tắm rửa sạch sẽ dẫn con cháu đồng đến chỗ Phật lễ lạy. Đức Phật hỏi “Sáng sớm đến có việc gì không?” Duy Da phu nhân bạch Phật” “Chúng con cỉ muốn thọ Trai giới”. Đức Phật dạy “Các vị phát tâm muốn thọ trai giới điều này rất tốt và rất khó được, nhưng có ba thứ là Mục Ngưu trai, Ni Kiền trai và Phật pháp trai. Vậy quý vị muốn thọ thứ nào?”. Phu nhân Duy Da không hiểu ba loại này khác nhau chỗ nào, xin Phật chỉ dạy. Nhân duyên này Đức Phật giải thích Mục Ngư Trai, Ni Kiền Trai và Phật pháp Trai. Đặc biệt Phật pháp trai chính là Bát Quan Trai Giới chúng ta đang đề cập đến hôm nay. Tóm lại “Bát quan trai giới” là một pháp tu rất lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác. Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo. Trong ý nghĩa này, tu có nghĩa là phát triển, làm cho bản thân càng lúc càng cao thượng ngang tầm Thánh đạo, để càng lúc càng nhìn thấy rõ dấu chân dẫn đến Niết bàn. Tu như vậy là tu giới, tu định và tu huệ. Ba khoản tu tạo thành một chuỗi quan hệ liên tục. Trí Bửu- Tháng 11/2014 NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI Hòa Thượng Thích Đỗng Minh NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BÁT QUAN TRAI Ban đầu đến cầu xin thọ giới Bát quan trai, chỉ bạch qua và trình ngày rảnh việc đã định… Khi Giới sư đã hoan hỷ cho, ra trai đường sẽ lễ cầu bạch rõ. Phật tử tại gia phát tâm thọ giới Bát quan trai phải đến chùa lễ cầu Giới sư, trước nhờ thầy Tri sự hướng dẫn. Khi Giới sư mỗi mỗi dặn bảo đủ rồi sẽ đảnh lễ cầu xin truyền giới. I. THỈNH GIỚI SƯ RA TRAI ĐƯỜNG Thầy Tri sự đánh khánh, bảo một Giới tử hiểu biết ra đứng giữa bạch, còn bao nhiêu đứng 2 bên. Bạch rằng – Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Bạch chư Tôn, chúng con có duyên sự, đầu thành đảnh lễ xin tác bạch Lạy 1 lạy rồi quỳ bạch – Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Bạch chư Tôn đức, chúng con pháp danh là…. vì gia duyên còn bận bịu, chưa xuất gia được, nay chúng con y theo lời Phật dạy, nguyện tập tu Bát quan trai giới. Xin thành tâm đảnh lễ thỉnh cầu chư Tôn đức thùy từ lân mẫn truyền trao giới pháp cho chúng con để chúng con được ân triêm công đức. Giới sư đáp rằng – Nam mô A-di-dà Phật, thiện tai khả nhĩ! Nếu muốn nói rộng thì – Các vị còn gia duyên bận bịu, chưa xuất gia được, nay nguyện tu Bát quan trai giới, đến thành tâm lễ cầu thầy truyền trao trai giới. Đại đức Tăng rất hoan hỷ hứa khả, vậy các vị lạy Tổ chứng minh cho. Giới tử bạch – Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Trên chư Tôn đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường. lạy 3 lạy II. THỈNH GIỚI SƯ TỀ NGHỆ TỔ ĐƯỜNG Thầy Tri sự xướng lễ – Nhất tâm đảnh lễ Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư, tam bái. Lạy rồi đứng qua một bên. – Giới tử tựu ban. Xướng lễ – Nhất tâm đảnh lễ Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư, tam bái. III. THỈNH GIỚI SƯ TỀ NGHỆ PHẬT TIỀN Niêm hương cầu Phật, Bồ-tát gia bị… Thầy Tri sự xướng – Nhất tâm đảnh lễ, nam mô tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. – Nhất tâm đảnh lễ, Nam mô Ta-bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. – Nhất tâm đảnh lễ, nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới A-di-dà Phật. – Cung thỉnh Giới sư thăng tòa. Thầy Tri sự bảo – Giới tử lập ban. Quay về Phật, liền xướng – Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trụ Phật. – Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. – Nhất tâm đảnh lễ đương hội đạo tràng nhất thế chư Phật. – Nhất tâm đảnh lễ đương hội đạo tràng chư tôn Pháp, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng. – Giới tử hồ quỳ, hiệp chưởng. Giới sư chắp tay, cử hương tán Lư hương sạ nhiệt Pháp giới mông huân Chư Phật hải hội tất diêu văn Tùy xứ kiết tường vân Thành ý phương ân Chư Phật hiện toàn thân. Nam mô Hương vân cái Bồ-tát. 3 lần Kệ Tán Pháp – Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. 3 lần Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai Tỳ-Ni nghĩa. Nam mô Khai bảo tạng Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lần IV. GIỚI SƯ KHAI ĐẠO – Này các Giới tử, các vị hãy lắng nghe cho kỹ! Bể khổ vô biên, không nương thuyền Bát-nhã thì không thể lên bờ Giác. Luân hồi nhiều nẻo, không thọ trì tịnh giới thì không thể được giải thoát. Chư Phật do tịnh giới mà thành Chánh giác. Đại thừa, Tiểu thừa đồng thọ trì tịnh giới; thế gian xuất thế đều giữ tịnh giới. Nhưng tại gia Phật tử vì trần lụy bao vây, không thể quyết chí chung thân thọ trì. Bởi thế, Đức Như Lai từ bi, phương tiện dạy mỗi một ngày đêm thọ trì tám thứ trai giới này. Tám trai giới này công đức siêu vượt ba cõi, thẳng đến Giác ngộ. Phật tử đáp – Nam mô Phật. Giới sư tiếp – Các Giới tư! Các người từ vô thỉ đến nay tạo các ác nghiệp vô lượng vô biên, nay phải chí thành tha thiết sám hối để cho thân tâm thanh tịnh tinh khiết, rồi mới thọ trì tám thứ trai giới. Vậy các vị hãy đọc theo lời tôi. Giới tử quỳ thẳng, chắp tay thành kính đọc theo – Đệ tử chúng con pháp danh là…. một lòng phụng thỉnh Đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật, mười phương ba đời tất cả chư Phật, chư tôn Pháp, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng. Cúi xin Tam bảo dũ lòng từ bi lai lâm chứng giám. Chúng con nhờ sức từ Tam bảo được thọ giới “Bát quan trai”. Xin thương xót cho chúng con. Đọc 3 lần như thế, Giới sư xướng – Khởi thân, nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trú Tam bảo. xướng 3 lần, mỗi lần Giới tử lạy 1 lạy. – Hồ quỳ, hiệp chưởng. Các Giới tử! Các vị đã phụng thỉnh Tam bảo chứng minh rồi, giờ đây các vị hãy đọc theo lời tôi để cần cầu sám hối Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp Đều do vô thỉ tham, sân, si Từ thân, miệng, ý phát sanh ra Đệ tử thảy đều xin sám hối. Nam mô Cầu sám hối Bồ-tát. 3 lần – Hồ quỳ, hiệp chưởng. Này các Giới tử! Giới tử đáp – Nam mô Phật. – Các vị đã chí thành sám hối, 3 nghiệp thanh tịnh rồi, vậy từ giờ này cho đến sáng mai hãy chí tâm tu tập tám thứ trai giới của Đức Phật chế. Tám thứ trai giới là những gì? – Một là không được sát sanh. – Hai là không được trộm cướp. – Ba là không được dâm dục. – Bốn là không được vọng ngữ. – Năm là không được uống rượu. – Sáu là không được trang sức hương hoa cùng phục sức đẹp, không được múa hát hay cố ý xem nghe múa hát. – Bảy là không được nằm ngồi giường ghế cao rộng. – Tám là không được ăn trái thời. Tám thứ này, 7 giới trước gọi là giới – nghĩa là đóng bít cửa ngõ ác đạo – giới thứ 8 gọi là trai, nghĩa là giống như đức Như Lai, bước theo đường lối trung đạo, ăn đúng vào lúc mặt trời đứng bóng. Gồm giới và trai gọi là “Bát quan trai giới”. Các vị nên phát tâm vô thượng, thọ giới vô thượng ấy. Vậy các vị hãy nói theo lời tôi chỉ dẫn Đệ tử Giới tử xưng tên và pháp danh qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Nguyện một ngày đêm làm tịnh hạnh Ưu-bà-tắc nếu là nữ thì xưng Ưu-bà-di. Đức Như Lai Chí Chân Chánh Biến Giác là Thế Tôn của con. Giới sư xướng – Khởi thân đảnh lễ Thập phương thường trú Tam bảo. – Hồ quỳ, hiệp chưởng. Giới sư dạy – Này các Giới tử! Giới tử đáp – Nam mô Phật. – Tôi đã trao ba pháp qui y cho các vị rồi, giờ lại trao cho các vị 3 pháp cứu cánh. Các vị hãy nói theo tôi Đệ tử Giới tử xưng tên và pháp danh đã qui y Phật rồi, đã qui y Pháp rồi, đã qui y Tăng rồi. Nguyện một ngày một đêm làm tịnh hạnh Ưu-bà-tắcnếu là nữ thì xưng Ưu-bà-di. Đức Như Lai Chí Chân Chánh Biến Giác là Thế Tôn của con. Giới sư xướng – Khởi thân đảnh lễ Thập phương thường trú Tam bảo. – Hồ quỳ, hiệp chưởng. Giới sư dạy – Này các Giới tử! Giới tử đáp Nam mô Phật. – Tôi đã trao cho các vị ba pháp qui y, ba pháp cứu cánh, thế là giới thể đã viên mãn rồi. Nay tôi lại nói rõ giới tướng để các vị chấp trì, không được hủy phạm. Vậy các vị hãy nói theo tôi Giới tử nói theo lời Giới sư – Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không sát sanh, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự sát sanh. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không trộm cướp, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự trộm cướp. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không dâm dục, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự dâm dục. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không vọng ngữ, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự vọng ngữ. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không uống rượu, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự uống rượu. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không trang sức, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự trang sức. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không múa hát và xem nghe múa hát, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự múa hát và xem nghe múa hát. Như chư Phật Thế Tôn suốt đời không ăn trái thời, đệ tử…. xưng pháp danh nguyện một ngày đêm xa lìa sự ăn trái thời. Giới sư xướng – Khởi thân đảnh lễ Thập phương thường trú Tam bảo. – Hồ quỳ, hiệp chưởng. Giới sư dạy – Này các Giới tử! Giới tử đáp – Nam mô Phật. – Các vị đã thọ tám trai giới rồi, giờ phải phát thệ nguyện. Hết thảy việc thế gian, cho đến việc xuất thế, nếu không phát nguyện, không việc gì thành tựu. Vậy các vị hãy chí thành phát nguyện theo lời tôi chỉ dẫn Giới tử nói theo – Đệ tử…. xưng pháp danh chí tâm phát nguyện nguyện do công đức thọ giới “Bát quan trai” này, giải thoát 3 đường, xa lìa tám nạn. Nguyện đem công đức ấy hồi hướng cho hết thảy hữu tình, hoặc thấy, hoặc nghe đồng sanh Tịnh độ, đồng thấy Như Lai, đồng chứng pháp nhẫn, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Phật đạo. Giới sư xướng – Khởi thân đảnh lễ Thập phương thường trú Tam bảo. – Hồ quỳ, hiệp chưởng. Giới sư dạy – Này các Giới tử! Giới tử đáp – Nam mô Phật. – Các vị nếu đã thọ tám trai giới rồi thì phải giữ từng giới như giữ tròng con mắt, trong một ngày một đêm đừng có hủy phạm. Trong tám trai giới ấy, nếu phạm một giới thì thành người bất tịnh. Tám trai giới này là giới rất vi diệu, làm cho người tại gia được xuất gia. Vậy các vị phải suốt một ngày một đêm này nhiếp tâm lại, chánh tâm lại, giữ gìn như giữ bờ đê không cho nước chảy. Các vị nhờ phước thiện đời trước, ngày nay được sanh làm người, được gặp Phật pháp, được thọ tịnh giới, làm căn bản cho giải thoát, vậy phải trân trọng, đừng nên tự khinh. Giới tử đáp – Y giáo phụng hành. Giới tử đứng dậy. Thầy Tri sự xướng cho Giới tử đảnh lễ – Nhất tâm đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam bảo. – Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. – Nhất tâm đảnh lễ Truyền giới Bổn sư. Lạy xong đứng luôn, Giới sư cùng đại chúng cử hồi hướng – Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa…. Thọ giới công đức thù thắng hạnh Vô biên thắng phước giai hồi hướng Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh Tốc vãng vô lượng quang Phật sát. Thầy Tri sự – Cung thỉnh Giới sư hồi nghệ Trượng đường. Bát Quan Trai giới là một phương pháp tu hành mà Đức Phật đã hướng dẫn cho Phật tử tại gia. Những người cư sĩ với nhiều điều phải giải quyết trong cuộc sống hàng ngày, khiến đời sống tu tập giải thoát trở nên khó khăn hơn rất đích của việc tu tập Bát Quan Trai là giúp quý Phật tử hiểu được những giá trị đạo đức và áp dụng nó vào cuộc sống đời thường, mang đến nhiều điều tốt đẹp cho bản thân và những người xung ra, phương pháp này cũng giúp quý Phật tử có cái nhìn rõ hơn về đời sống của một tu sĩ, những phẩm chất, những lý tưởng cao quý mà phát tâm xuất gia để phụng sự nhân Quan Trai giới là gì?Tám Giới bao gồm những gì?1. Giới thứ nhất Không sát sinh2. Giới thứ hai Không trộm cướp3. Giới thứ ba Không dâm dục4. Giới thứ tư Không nói dối5. Giới thứ năm Không uống rượu6. Giới thứ sáu Không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát…7. Giới thứ bảy Không được nằm ngồi giường cao đẹp8. Giới thứ tám Không được ăn quá giờ ngọThọ trì Bát Quan Trai giới sẽ được những lợi ích gì?Bát Quan Trai tiếng Phạn Upavasatha – tiếng PaliUposatha theo nghĩa đen là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Có nghĩa là trì giới sẽ làm phát triển phần thanh tịnh, những phẩm chất tốt đẹp bên tử chúng ta ai cũng biết nghĩa hai chữ Hán Việt Bát là tám, Quan là cửa, còn chữ “trai” hay “chay” nguyên chữ Phạn là Posadha, có nghĩa là khi đã qua giờ Ngọ 12 giờ trưa thì không ăn Bát Quan Trai chính xác được gọi là Giới Cận Trụ, nghĩa là sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền và gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh để thấy được giá trị cao quý của Phật Quan Trai cũng còn gọi là Bát Trai Giới, Bát Chi Trai hay gọi tắc là Bát Giới tám giới, có nghĩa là tám cửa ngăn cản không làm tội lỗi, tập tu trọn một ngày một đêm trong chùa. ức Phật hướng dẫn Bát Quan Trai để cho hàng cư sĩ tại gia thực hành hạnh xuất gia, tập lần xuất gia thật giới tức là tám điều quy định của nhà Phật, cũng chính là tám giới mà Phật tử sau khi đã thọ lãnh thì giữ không cho phạm, giới là làn ranh giữa thánh thiện va tội thường thì Phật tử hiểu Giới là những điều ngăn cấm, nhưng ý nghĩa chính Giới là phẩm giá của con người. Trì giới tức là giữ gìn cái phẩm chất đạo đức của mình, giữ giá trị con người của Phật tử thọ giới rồi vẫn có thể phạm rất nhiều, nhưng biết là phạm thì phải sửa. Không ai sinh ra mà đi được liền, nhưng bản năng té thì đứng dậy. Vì vậy, từ bước đi căn bản Ngũ giới chúng ta nâng cao lên một bậc nữa là Bát Quan Trai tu Bát Quan Trai giới tức là người chuyên làm thiện trong suốt 24 giờ, tâm hồn của họ suốt 24 giờ không còn bị chi phối việc thế gian. Các vị đã vứt bỏ mọi việc ác, thân tâm không vi phạm; các vị phát nguyện sống gần gủi vi A La Hán, sống gần những vị Bồ Tát, giữ tròn đạo hạnh cùng với bạn Giới bao gồm những gì?1. Giới thứ nhất Không sát sinhDứt mạng sống gọi là sát, loài hữu tình là sinh. Chúng sinh có hình dáng khác nhau, nhưng cùng tham sống, sợ chết, biết đau khổ, vui mừng. Là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi, cần phải cố gắng không sát hại sinh hại người, trong ngũ giới Phật đã tuyệt đối cấm. Do đó khuyến khích người Phật tử ăn chay, không giết hai sinh vật. Trong ngày thọ Bát Quan Trai, chúng ta hãy giữ giới không sát sinh. Ta không giết, không trù tính mưu mô giết, cũng không nên bảo người khác giết, không vui khi thấy người như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu Giới thứ hai Không trộm cướpNhững vật thuộc quyền sở hữu của người khác, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, boc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm thọ Bát Quan Trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Giữ được giới này, dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu Giới thứ ba Không dâm dụcDâm dục là cái gốc của sinh tử luân hồi, Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục, Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được ngoại thọ Bát Quan Trai giới, phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục, cũng không được nghĩ đến những điều dâm Giới thứ tư Không nói dốiNói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, đó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung thực hành giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân Giới thứ năm Không uống rượuRượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc. Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy “Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu”.Là Phật tử , những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, khuyên mời người khác uống, tội lại nặng thọ “Bát Quan Trai giới”, chúng ta không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống Giới thứ sáu Không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát…Phật cấm phật tử trang điểm, sơn phấn, dầu thơm, múa hát… là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát…Ngày thọ giới Bát Quan Trai, chúng ta không được trang điểm, múa hát hay đi xem múa hát…Đưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng Giới thứ bảy Không được nằm ngồi giường cao đẹpNoi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát Quan Trai, cũng phải thi hành giới thứ bảy Giới thứ tám Không được ăn quá giờ ngọTrong luật Phật dạy “Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ Ngọ”.Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn phật tử tại gia, khi tu Bát Quan Trai giới cũng phải giữ đúng giới trì Bát Quan Trai giới sẽ được những lợi ích gì?Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát Quan Trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thâu hoạch được trong 24 giờ ấy mà giới thứ nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Đối với chung quanh, ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân giới thứ hai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải mà họ đã nâng niu, quý giới thứ ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm, cùng những người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính giới thứ tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chung quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì giới thứ năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì con ma men này hành giới thứ sáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh, mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô…Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh giới thứ bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị cái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn giới thứ tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra sự thèm khát vì sự lục lạo ăn uống về nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24 giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thế nữa?Mặc dù phải bận bịu với “cơm áo gạo tiền”, nhưng quý Phật tử tại gia cũng nên sắp xếp việc nhà để vào chùa thọ Bát Quan Trai giới một vài lần trong tháng. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể thọ trì được nhiều lần lại càng không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng đến chùa. Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải thoát rồi khuyên nhiều người thực hành theo để cùng nhau được hưởng nhiều lợi lạc trong cuộc – –

bát quan trai giới